[Tư liệu] - Hồ sơ các huyền thoại Barça

rivaldo_2911

Nhặt bóng sân Camp Nou
Thành viên danh dự
Đầu quân
25/7/07
Bài viết
1,007
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
Lò gạch
Website
www.fcbarcelona.cat
Barça đồng
0
Maradona


Maradona5.jpg
Anh là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới trong thế kỷ 20 cùng với Pele điều đó được thể hiện trong những ngày tháng thi đấu trong màu áo Boca, Barca, Napoli…mà tiêu biểu là trong đội hình Argentina tại World Cup 1986, 1990. Khó mà có thể quên được bàn thắng đẹp nhất W.C 1986 và cũng là bàn thắng đẹp nhất mọi thời đại…Tài năng của anh là không thể phủ nhận. Trong phạm vi bài viết này xin chỉ được viết về anh trong những ngày tháng thi đấu cho Barcelona-Câu lạc bộ mà anh đã “đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh”.
Maradona8.jpg


Maradona7.jpg

Rời câu lạc bộ Boca Juniors quê hương, Diego Maradona tới Barcalona đầu những năm 80 trong một bản hợp đồng gây choáng váng dư luận thời đó. Người ta hy vọng rằng Maradona sẽ trở thành một tượng đài bất diệt của câu lạc bộ xứ Catalan, còn bản thân “Cậu bé vàng” cũng muốn tạo một bước đột phá lớn khi lần đầu tiên tiếp cận với bóng đá Châu Âu. Ngày anh ra mắt câu lạc bộ có tới hơn 50000 cổ động viên tới chúc mừng anh.
Maradona4.jpg

Maradona3.jpg

Nhưng những giấc mơ lãng mạn ấy đã biến thành cơn ác mộng. Hai mùa bóng ở Barcelona là quãng thời gian mà anh muốn quên đi nhất. Chẳng thấy đâu những nụ cười chiến thắng, những cánh tay giơ cao đầy hân hoan mà hình ảnh tiêu biểu của Maradona ở thời kỳ này là khuôn mặt đau đớn vì chấn thương và thất bại.
Và dường như thất bại của Maradona ở Noucamp đã được tiên báo trước. World Cup 1982 được tổ chức tại Tây Ban Nha, và khi đó Argentina đang là đương kim vô địch, Maradona là cầu thủ được kỳ vọng nhất trong đội hình đội đương kim vô địch năm ấy. Và sân vận động có vinh dự được diễn ra trận khai mạc giữa Argentina và Bỉ chính là Noucamp-Nơi anh vừa có màn ra mắt chào khán giả cách đây không lâu. Thế nhưng trong trận khai mạc đó anh đã chơi quá tệ . Không chỉ riêng trận mở màn mà cả giải đó cũng coi như là vất đi đối với Maradona. Khó mà có thể quên nổi cú đạp thô bạo của Maradona vào cầu thủ Brazil trong trận thua đầy bất lực của Argentina trước Brazil, anh đã bị trọng tài đuổi ngay ra khỏi sân.
Bị săn lùng ráo riết bởi các hậu vệ rắn nhất, Maradona liên tục bị chấn thương và không mấy khi được ra sân. Thật trớ trêu là ngày anh bình phục thì cũng là ngày mà huấn luyện viên Lattek ra đi. Thế chỗ vào đó là huấn luyện viên Cesar Luis Menotti. Mà giữa Maradona và Menotti luôn có những mâu thuẫn khó có thể dung hoà bởi chính Menotti là người đã gạt Maradona ra khỏi danh sách đội tuyển Argentina tham dự World Cup 1978, năm đó Argentina được chơi trên sân nhà và là đội vô địch. Thế nhưng ở Barca, Maradona đã bị loại khỏi cuộc chơi không phải do Menotti mà là tên đao phủ Andoni Goikoetxea của A.Bilbao, người đã chém gãy chân Maradona( Có một điều đáng nói ở đây là chính tên này đã từng chém gãy chân Schuster). Chấn thương khá nặng đã khiến Maradona phải “mài đít” trên ghế dự bị vài ngày.

Maradona6.jpg

Maradona2.jpg

Chuỗi ngày đen tối của Maradona cuối cùng cũng kết thúc khi anh chuyển sang thi đấu cho Napoli trong bản hợp đồng đắt giá nhất thời đó( 5 triệu bảng). Từ đó, sự nghiệp của Maradona lên như diều gặp gió, để cuối cùng trở thành cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ 20
Tuy thất bại trong màu áo Barcelona nhưng anh cũng có những dấu ấn nhất định ở đây . Trong 58 trận đấu chính thức anh ghi được tới 38 bàn-một con số đáng khen ngợi trong bối cảnh anh luôn bị đối phương tìm cách chặt chém và kèm chết. Danh hiệu duy nhất mà Maradona dành được đối với Barcelona là chiếc cúp Nhà Vua năm 1983, sau khi đánh bại Real Madrid trong trận chung kết. Dù thất bại nhưng dẫu sao Barcelona cũng là môi trường mà Maradona đuợc tôi luyện kỹ càng trước khi toả sáng ở trời Âu.
Maradona1.jpg

Chiếc cúp duy nhất Maradona giành được cùng Barça
[video=youtube;iKLZmb1IINM]http://www.youtube.com/watch?v=iKLZmb1IINM[/video]
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

rivaldo_2911

Nhặt bóng sân Camp Nou
Thành viên danh dự
Đầu quân
25/7/07
Bài viết
1,007
Được thích
1
Điểm
38
Nơi ở
Lò gạch
Website
www.fcbarcelona.cat
Barça đồng
0
Lineker

LINEKER


Tại Leicester - một thành phố nơi mà bóng đá được coi như một thứ tôn giáo, đã nuôi dưỡng cho nền bóng đá một tiền đạo mà sau này sẽ trở thành một cây ghi bàn tốt nhất trong lịch sử giải Ngoại hạng Anh. Tên đầu của ông là Gary, đó là cái tên mà mẹ ông đặt cho. Còn cái tên thứ hai là Winton thì được người cha yêu dấu của mình chọn đặt. Cả hai cái tên đó được bố mẹ đặt cho với long kính trọng đối với thủ tướng Anh thời bấy giờ là Winston Churchill, và cũng chính với hai cái tên ấy đã ghép lại thành một tên tuổi đi vào lịch sử bóng đá Anh, và đó cũng là một phần lịch sử của FC Barcelona, cái tên liên quan tới một bước ngoặt trong lịch sử hào hung của câu lạc bộ xứ Catalan

Athletic.jpg


Lineker luôn thi đấu năng nổ và hết mình mỗi khi được thi đấu

Họ Lineker của ông trong thời kỳ đó đã trở thành từ đồng nghĩa với bàn thắng. Tại Barcelona, Gary Winston Lineker đã chứng minh được đẳng cấp của một tiền đạo cũng như nhân phẩm vĩ đại của ông, những phẩm chất mà nhờ đó Ông đã chiếm được cảm tình của người hâm mộ.

Lineker bắt đầu sự nghiệp cầu thủ tại Leicester noi theo thần tượng của ông từ lúc còn nhỏ, đó là một cầu thủ mang tên Worthigton, ông đã từng bước leo lên đến đội bóng hàng đầu của thành phố trong mùa bóng 83-84. Jock Wallence, huấn luyện viên kỹ thuật, người sau này chuyển đến Sevilla đã phát hiện ra tài năng của ông khi ông mới 19 tuổi. Trong hai mùa bóng ở Leicester, tiền đạo này đã ghi 50 bàn thắng, một con số làm cho tất cả các đội bóng lớn ở Anh bấy giờ thèm muốn. Cuối cùng Everton là đội đã vượt qua tất cả và thành công khi có được Lineker. Trong mùa bóng cuối cùng tại câu lạc bộ này, Lineker đã ghi được tới 39 bàn thắng và được phong là cầu thủ chơi hay nhất trong năm của Anh. Sự tiến bộ vượt bậc đó đã giúp ông có được một vị trí chính thức trong Cúp thế giới được tổ chức tại Mexico năm 1986 và là mối quan tâm hàng đầu của nhiều đội bóng Châu Âu trong đó có Barcelona.

Đội bóng áo sọc xanh đỏ khi được được dẫn dắt bởi chính Terry Vebables, người luôn mơ ước có được trong đội hình của mình một tiền đạo trung phong có đẳng cấp quốc tế. Lineker đã chứng minh đẳng cấp của mình trong World Cup 1986 nơi mà ông từ vị trí tham dự giải của một cầu thủ không mấy tên tuổi cho đến khi rời giải với tư cách là Vua phá lưới. Và Barcelona đã có sự lựa chọn chính xác khi ấn định hợp đồng là 450 triệu (TBN) trước giải vô địch thế giới bởi vì sự hiệu quả của anh chàng tiền đạo cắm này trong đội hình đội tuyển Anh dưới sự dẫn dắt của Bobby Robson là rất hoàn hảo. Vị huấn luyện viên người Anh này đã không ngần ngại lựa chọn Lineker bất chấp cánh tay đang bị bó bột và Lineker đã không làm phụ lòng ông khi ghi được tới 6 bàn thắng tại Mexico.

Sau khi đến Barcelona tiền đạo người Anh đã thể hiện sự hiệu quả của mình và dành được sự yêu mến của cổ động viên xứ Catalan. Họ đặt cho ông cái tên “ Gary ghi bàn”. Trong hai mùa bóng đầu tiên ông đã dành được danh hiệu cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất của Barca. Ngược lại với đồng đội mình là Mark Hughes, người chơi cặp với Lineker ở Barcelona. Ông không phải là mẫu tiền đạo chơi theo kiểu Anh là mạnh mẽ và thô bạo, mà là một cầu thủ tài năng và luôn đưa ra những cú đá chí mạng ở những pha dứt điểm cuối cùng. Lineker luôn xuất hiện đúng lúc ở những chỗ nhạy cảm nhất và đoá chính là khu vực nguy hiểm chết người với bất kỳ khung thành nào. Lineker thường xuất hiện ở những pha bóng cuối cùng và là người dứt điểm, ghi bàn ở bất cứ vị trí nào. “Đó là một nghệ thuật chơi bóng tuyệt vời” như lời nhận xét của một huấn luyện viên khi ông xem Lineker thi đấu.

Tuy nhiên ở hai mùa bóng đầu, Lineker chỉ dành được Cúp nhà Vua năm 1988, trong trận chung kết cúp nhà Vua Lineker đã có tên trong đội hình chính thức. Và với thành tích đó Barca đã có mặt tại Cúp Châu Âu mùa giải sau, nhưng thật đáng buồn với cá nhân Lineker và đồng đội của Anh vì Barcelona đã sớm phải rời cuộc chơi ở đấu trường Châu lục.

Và đó cũng là thời điểm, là giai đoạn chuyển biến lớn trong lịch sử Barcelona. Đó là một “bước ngoặt” khi Johan Cruyff đã hạ cánh xuống Noucamp. Với căn bệnh gan ngày một trầm trọng đã buộc Lineker phải rời xa sân cỏ trong nhiều tháng trời. Và đó cũng chính là quãng thời gian tồi tệ nhất trong sự nghiệp cầu thủ bóng đá của ông. Và một khi Johan Cruyff đã đến thì đồng nghĩa với một cơn lốc bóng đá sẽ đến Noucamp. Nó dẹp bỏ đi tất cả những tàn tích của những người tiền nhiệm để lại. Nó là một đội hình không có đất sống cho những tiền đạo ưa đá cắm như Lineker, một đội hình khô khan về mặt chiến thuật vốn dĩ không nằm trong tiềm thức của bất kỳ Cules nào vốn đã biết đến Barcelona với lối đá hào hoa thời bấy giờ.

Thứ bóng đá mà Johan Cruyff áp dụng tại Barcelona là một thứ bóng đá có sức tấn công mạnh như vũ bão, mạnh đến kinh ngạc. Với một đội hình như vậy thì Lineker chỉ được xếp đá ở vị trí tiền đạo cánh - một vị trí mà ông không hề ưa thích. Cruyff đã đẩy xa Lineker ra khỏi khu vực hoạt động sở trường của ông bất chấp Lineker không hề hợp với vị trí mới một chút nào. Tiền đạo người Anh vẫn tiếp tục thể hiện phong cách thi đấu tuyệt vời của mình trong mỗi lần được tung ra sân nhưng hiệu quả thi đấu vẫn giảm xuống một cách đáng buồn. Mặc dù vậy, trong trận chung kết cúp C2 năm 1989 Lineker vẫn có tên trong đội hình chính thức và góp phần giúp Barca đánh bại Sampdoria và lên ngôi vô địch.

Tuy nhiên cầu thủ đã thi đấu chính thức nhiều nhất cho Barcelona cũng chính là cầu thủ được cho là sẽ phải ra đi. Vị trí không bền vững của Lineker trong đội hình của Barcelona và việc Lineker ra đi là một điều tất yếu và được dự báo từ trước. Dưới trướng của Cruyff thì Lineker chính là vật tế thần, là cầu thủ trong bước chuyển giao giai đoạn lịch sử. Một cầu thủ vĩ đại đã trở thành hệ quả của một cuộc tẩy chay và sau này chỉ có Txiki Beguiristain, Michael Laudrup và Stoichkov là đáp ứng và thay thế hoàn hảo trên tam giác tấn công do chính Cruyff dày công tìm kiếm.

19_lineker1-1.jpg


Phần thưởng xứng đáng...

Tạm biệt thảm cỏ xanh Noucamp, Lineker đã quyết định trở lại quê nhà và đầu quân cho Tottenham mùa hè 1989. Lineker đã gắn bó với Tottenham tới mùa bóng 91-92, mùa giải mà ông đã dành cúp cùng với các cầu thủ như Nayim và Gascoigne. Giữa mùa bóng đó, Lineker tuyên bố sẽ chấp nhận lời mời của đội bóng Nagoya Grampus Eight để chơi ở Nhật và chấm dứt sự nghiệp bóng đá quốc tế của mình với một bản hợp đồng hàng triệu Đô la. Sự ra đi của ông là một niềm đáng tiếc với nước Anh nhưng thông tin đáng buồn hơn nữa là con trai ông chưa đầy hai tuổi có thể chết do bệnh máu trắng, cả đất nước lặng người. Họ mong rằng may mắn ông và con trai sẽ vượt qua được hoàn cảnh một cách tươi đẹp.

Cuối cùng dù chủ tịch câu lạc bộ thành Luân Đôn đã đề nghị nhưng Lineker vẫn bắt đầu cuộc phiêu lưu ở Nhật và là một trong nhiều “tù nhân” Châu Âu ở giải Ngoại hạng Nhật. Chắc chắn rằng đó là giải đấu cuối cùng ở nước ngoài đối với sự nghiệp của một trong những tiền đạo hay nhất mà bóng đá Anh đã sản sinh ra trong lịch sử của nó.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Mới đây, ngày 3/9/2008, Joan Segarra Iracheta, Đội trưởng đội bóng xứ Catalan vào thời kỳ "Barça of the Five Trophies - Cinco Copas team", một trong những thời kỳ hoàng kim nhất trong lịch sử Barcelona, đã qua đời tại Taradell. Joan Segarra sinh ngày 15/11/1927 tại Barcelona. Ông đã chơi cho Barca trong 16 mùa giải, từ năm 1950 đến 1964, với 299 lần khoác áo tại La Liga, và đứng thứ 6 trong lịch sử câu lạc bộ về số lần ra sân với tổng số 528 trận đấu góp mặt.

segarra2.jpg

Thành tích:
* 4 Leagues: 1952, 1953, 1959, 1960.
* 6 Cups: 1951, 1952, 1953, 1957, 1959, 1963.
* 2 Inter-Cities Fairs Cup: 1955-58, 1958-60.
* 2 Latin Cup: 1949, 1952.
* 2 Copa Eva Duarte de Perón: 1952, 1953.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

denpietrau

Chuyên gia chăn Dê, diệt Cu-lét
Đầu quân
23/7/07
Bài viết
13,343
Solutions
1
Được thích
569
Điểm
113
Nơi ở
Hà Nội
Barça đồng
3,356
Hồ sơ các cầu thủ xuất sắc trong lịch sử FC Barcelona

Johan Cruyff

1117844891_cruyff.jpg


Con người ấy đã để lại một dấu ấn lớn lao trong suốt chiều dài lịch sử của FC Barcelona. Ông là một người Hà Lan, nhưng đã sống, đã yêu và đã trải qua biết bao đau khổ với đội bóng mà mình yêu như máu thịt, cả với tư cách cầu thủ lẫn HLV. Đấy là một cầu thủ huyền thoại, và có lẽ mẫu người như ông sẽ khó co sự lặp lại. Johan Cruyff, đó là tình yêu bóng đá và yêu cuộc sống lớn lao, như một nỗi đam mê không cùng

Họ: Cruyff
Tên: Johan
Ngày sinh: 24-5-1947
Nơi sinh: Amsterdam, Hà Lan​

Các CLB khi là cầu thủ:
•Ajax Amsterdam
•FC Barcelona (1973 - 1978)
•Los Angeles Aztecas
•Washington D.
•Levante
•Washington D.
•Ajax Amsterdam
•Feyenoord Rotterdam

Các CLB khi ông là HLV:
•Ajax Amsterdam
•FC Barcelona (1988 - 1996)

Các danh hiệu:

Khi là cầu thủ:
-8+1 cúp VĐQG Hà Lan ( 8 với Ajax Amsterdam và 1 với Feyenoord)
-5+1 Cúp QG Hà Lan (5 với Ajax Amsterdam và 1 với Feyenoord)
-3 cúp C1 (Ajax)
-1 siêu cúp châu Âu (Ajax)
-1 cúp liên lục địa (Ajax)
-1 cúp VĐQG TBN (Barca)
-1cúp QG TBN (Barca)
-3 quả bóng vàng châu Âu (1971, 1973, 1974)
-1 quả bóng đồng châu Âu (1975)
-321 bàn thắng trong 553 trận đấu
-Khoác áo ĐTQG Hà Lan 48 lần, ghi được 33 bàn thắng

Khi làm HLV:
-Cúp C1 1992 (Barca)
-2 cúp C2 (Barca, Ajax)
-2 cúp QG Hà Lan (Ajax)
-4 chức VĐQG TBN với Barca từ năm 1991 đến năm 1994
-1 cúp QG TBN (Barca)

Cao 1m80 và chỉ nặng 60kg, chàng cầu thủ ấy trông giống như một con mèo lười biếng và gầy guộc trong những năm tháng đỉnh cao của sự nghiệp. Thế nhưng, trên sân bóng, anh là một con báo, một chú linh dương với những bước nhảy thần kỳ. Một cầu thủ có mái tóc bồng bềnh, đôi mắt rất sáng, hơi kiêu ngạo nhưng đầy đam mê. Ai có thể giải thích sự uyển chuyển trong lối chơi ấy ở đâu ra, một phong cách không thể lẫn vào đâu được. Và trên lưng áo ấy là con số 14 huyền thoại.

Sinh ngày 25 tháng 4 năm 1947 tại Amsterdam, từ nhỏ Cruyff đã luôn bị ám ảnh phải trở thành cầu thủ vĩ đại của bóng đá thế giới, những màn trình diễn đầy diễm ảo của anh trên con phố nhỏ của thủ đô Hà Lan luôn mang đến cho người qua đường những sự bất ngờ thích thú. Để rồi năm 10 tuổi, Cruyff bước chân vào trường đào tạo cầu thủ trẻ của Ajax và 7 năm sau, trở thành cầu thủ trong đội hình 1 của CLB. Một huyền thoại đã bắt đầu như thế đấy. "Tôi luôn học Di Stefano, ông ấy là người thầy lớn nhất trong đời tôi. Trên đời này, tôi chẳng thần tượng một ai. Tôi cũng không muốn mình phải giống ai, bởi đơn giản tôi là Johan Cruyff. Chỉ có một người duy nhất làm tôi nể phục, đó là Di Stefano. Tôi không dám nói một ngày nào đó tôi được như ông ấy, nhưng tôi ao ước điều đấy một cách cùng cực, bởi ông ấy là thầy tôi..." Cruyff nói. Huyền thoại bóng đá TBN lúc đấy sống trong trái tim chàng trai trẻ tuổi. Đó cũng là thần tượng đầu tiên và duy nhất trong đời chàng trai Hà Lan ngạo mạn này.

Ajax trở thành chốn dung thân đầu tiên của Cruyff, nhưng hơn hết, đó là nơi đã biến anh trở thành một cầu thủ vĩ đại của bóng đá Hà Lan trong những năm 70 và là người mở đầu trong một thế hệ " Hà Lan bay" chinh phục trái tim của những người yêu bóng đá đẹp trên toàn thế giới.

Những năm 70 của thế kỷ 20 đã chứng kiến một cuộc cách mạng ngoạn mục nhất của bóng đá thế giới. Khi ấy, Catenaccio của Italia đang lên ngôi, và người ta sợ rằng điều đó sẽ giết chết bóng đá thế giới. Chính Cruyff cùng những người đồng đội như Rep, Suubier và Neeskens đã giúp Ajax mở ra một làn gió mới trong làng bóng đá thế giới. Và họ đã quét sạch châu Âu trong vài năm. Rinus Michels và nhũng môn đệ của mình đã làm cho cả thế giới phải kinh ngạc bằng tốc độ của lối chơi.

Tất cả những gì mà Ajax làm được ở thời thời kỳ đấy được xây dựng trên tốc độ: Tốc độ chuyền bóng, tốc độ di chuyển của cầu thủ, tốc độ chiếm khoảng không gian, tốc độ suy nghĩ, áp đặt lối chơi, và trên hết là tốc độ của người nhạc trưởng Cruyff tài hoa.

Sự đa dạng trong lối chơi là một phẩm chất lớn của Cruyff. Anh có thể chơi như một trung phong, lúc lại lùi hẳn về tiền vệ và trỏ thành người chỉ huy đội bóng, có lúc lại xuất hiện ở cánh với những cú đi bóng tốc độ và những pha đột phá không thể lường trước được. Cruyff biết cách hạn chế những điểm yếu về thể hình của mình bằng một lối chơi đầy thông minh và mang hơi hướng bản năng cá nhân không thể lẫn vào đâu được. Một sự uyển chuyển trên đôi chân như một con báo, những quả chuyền tinh tế và chính xác đến ngạc nhiên, anh trở thành nhà ảo thuật của một thứ bóng đá thật đẹp và lãng mạn mà anh vẫn luôn tôn thờ trong suốt sự nghiệp của mình. "Tôi phải làm gì bây giờ, tôi được sinh ra là để chơi thứ bóng đá ấy, một thứ bóng đá thuần chất nghệ thuật và cống hiến. Tôi không biết làm gì hơn".

Ajax của Cuyff đã tàn phá các đối thủ của mình ờ châu Âu trong những năm đầu của thập kỷ 70 như thế. Các khán giả luôn sừng sờ đến cứng đờ người trước những màn ảo thuật của đội quân áo trắng đỏ.

Và Johan Cruyff đã được người ta tôn vinh là một vị thánh. Đến năm 1973, Johan đã trở thành cầu thủ đáng thèm muốn nhất trên thế giới với tất cả những danh hiệu lớn mà một cầu thủ có thể mơ ước tới. Đội tuyển màu da cam của anh cũng đã trở thành một cơn lốc thổi bạt cả lục địa. Và những danh hiệu cá nhân tới tấp đến với tiền vệ huyền thoại người Hà Lan. Rất khiêm tốn, Cruyff là người không thích nói đến các danh hiệu. "Tôi không nghĩ mình làm tất cả những điều đó để được người ta tôn vinh. Không, không bao giờ là như thế, tôi muốn làm tất cả những gì có thể để đem lại một chút niềm vui nhỏ nhoi trong cuộc đời. Người ta có thể không tìm thấy hạnh phúc trong cuộc đời thực, nhưng trên sân bóng, không có chỗ cho suy tư, họ cần phải biêt tìm thấy niềm vui qua những bàn thắng và qua những cuộc trình diễn đầy hư ảo. Tôi chỉ muốn làm đẹp cho đời."

Barcelona có lẽ là đội bóng hạnh phúc nhất trên thế giới khi có được ông, cả với tư cách cầu thủ và HLV. Bởi những quãng đời đẹp nhất của Cruyff đều diễn ra ở đội bóng khổng lồ này. Họ đã dũng cảm để bỏ ra đến 2,2 triệu USD, một cái giá kỷ lục thế giới để rước anh về, và anh đã chơi bóng trong sự hứng khởi trong suốt 5 năm trước khi lại ra đi một lần nữa. Có lần, Cruyff đã nói: " Barca là tình yêu lớn nhất trong đời tôi. Ajax đã cho tôi bầu sữa để tôi lớn lên còn Barca cho tôi bầu không khí để thở và đôi cánh để bay. Tôi cảm thấy mình như có một phần máu thịt ở đó,và Catalonia như là quê hương thứ 2 của tôi".

Cruyff.jpg

Mùa giải đầu tiên của anh với Barca là một thành công lớn. Cùng với 2 người đồng hương là HLV Michels và anh bạn Neeskens, Cuyff đã đem về CLB chức vô địch đầu tiên sau những 14 năm trời bị chế độ độc tài Franco dồn ép. Trận thắng 5-0 của Barca ngay trên sân Bernabeu có lẽ sẽ còn được nói đến nhiều. Lối chơi của Cruyff đôi khi cũng khiến các HLV cảm thấy tức giân bởi anh luôn chơi hết mình tại Nou Camp trong khi trên sân khách lại chơi lờ đờ như một bóng ma để giữ sức. Cruyff có ảnh hưởng không thể bàn cãi với cả đội bóng trong và ngoài sân cỏ.

Anh là một người độc đoán và gia trưởng, luôn luôn bắt đội bóng phải chơi theo cách nghĩ của mình. Khi HLV không muốn chơi như thế, Cruyff làm mọi cách để ông này bị sa thải, và việc chọn HLV mới, người ta cũng phải thông qua Cruyff khó tính.

cruyff2.jpg

Khi Cruyff trở thành HLV của Barca vào năm 1988, người ta đã khuyên ông đừng nhận nhiệm vụ vì sự căng thẳng tột cùng khi làm HLV cho một đội bóng hàng đầu. Bất chấp tất cả, Cruyff lao mình vào cơn bão và đã gặt hái không ít thành công.

Cruyff3.jpg

Cruyff cùng các cộng sự trên băng ghế chỉ đạo​

Những cá tính và phẩm chất của Cruyff là không thể bàn cãi và đội bóng trở thành một gã khổng lồ của bóng đá châu Âu. Ít ai biết được sau những chiến công lớn lao ấy là một nỗi đam mê lớn lao mà ông đã theo đuổi trong suốt cuộc đời, một phong cách bóng đá làm mê hoặc tất cả và một nỗi ám ảnh lớn lao của bóng đá đẹp.

Cruyff1.jpg

Cruyff và sự nghiệp HLV tại Barca​

Bên cạnh đấy là những cơn đau tim kịch phát sau những căng thẳng kéo dài khi làm HLV trưởng và cả những tuyên bố đầy ngạo mạn trước khi hạ gục đối phương. Johan đã để lại một sự nghiệp đồ sộ ở Barca, gia đình ông cũng trở thành một nửa Hà Lan - TBN. Con gái ông lấy một thủ môn trong đội hình, vợ ông mang quốc tịch thứ 2 và con trai ông, Jordi Cruyff trở thành báu vật lớn nhất mà người cha thiên tài đã sản sinh ra. Còn Cruyff bây giờ ra sao?

Ông là người sáng lập và quản lý một trường đào tạo cầu thủ mang tên ông và vẫn quan tâm đến Barca như mọi khi. Johan tâm sự: "Tôi muốn trở lại với bóng đá,nhưng có lẽ sẽ không phải trên cương vị HLV vì các bác sỹ nói rằng như thế sẽ quá căng thẳng cho trái tim của tôi. Tôi có thể sẽ làm một cái gì đó liên quan đến bóng đá, dù là nhỏ nhất. Barca? trước sau gì tôi cũng trở lại." Những người hiểu Cruyff đều biết rằng ông đã nói là sẽ làm, chắc chắn ông sẽ trở lại, một cách ngạo nghễ như mọi khi.......
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

denpietrau

Chuyên gia chăn Dê, diệt Cu-lét
Đầu quân
23/7/07
Bài viết
13,343
Solutions
1
Được thích
569
Điểm
113
Nơi ở
Hà Nội
Barça đồng
3,356
JOAN GAMPER

GAMPERretrat.jpg


Quốc tịch: Thụy Sĩ
20px-Flag_of_Switzerland.svg.png

Các mùa giải thi đấu cho CLB: 1899-1903
Số trận thi đấu: 51
Số bàn thắng: 120
Thành tích: Macaya Cup: 1901-02 Barcelona Cup: 1902-03.​

Là một trong những người sáng lập FC Barcelona vào ngày 29 tháng 11 năm 1899 và đã 5 lần là chủ tịch câu lạc bộ từ 1908 đến 1925 nhưng chắc hẳn ít ai được biết rằng Gamper cũng là một cầu thủ xuất sắc.

Người đàn ông người Thuỵ sĩ này là một ví dụ điển hình nhất cho hình ảnh một vận động viên thể thao mơ ước, Joan Gamper (sinh năm 1877 tại Winterthur, Thuỵ Sĩ và mất năm 1930 tại Barcelona) là người thành công trong rất nhiều môn thể thao ông chơi: bơi lội, bóng bầu dục, đua xe đạp, điền kinh và giỏi nhất có lẽ là bóng đá. Ông đến Barcelona năm 1898 và trở thành chuyên gia thể thao đầy kinh nghiệm của khu Sant Gervasi và đến năm 1899, ông gần như là người đầu tiên mang môn bóng đá của người Anh đến Barcelona.

gamper_mov.jpg

Là người thành lập câu lạc bộ và là đội trưởng của đội bóng, tuy nhiên ông không làm công việc của chủ tịch câu lạc bộ (Gamper là vị chủ tịch vĩ đại của FC Barcelona) cho đến 9 năm sau đó. Cũng bởi vì vào thời điểm đó ông là một cầu thủ tài năng và những kỹ năng chơi bóng xuất sắc hơn hẳn các cầu thủ còn lại. Ông là một tiền đạo và luôn ghi những bàn thắng với kỹ thuật không ai có thể nghĩ tới vào thời điểm đó. Sự nghiệp thi đấu của Gamper không phải là nhiều nhưng những thành công trên sân cỏ cũng như ngoài đời khi điều hành câu lạc bộ đã được vinh danh là vị chủ tịch vĩ đại của câu lạc bộ.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

denpietrau

Chuyên gia chăn Dê, diệt Cu-lét
Đầu quân
23/7/07
Bài viết
13,343
Solutions
1
Được thích
569
Điểm
113
Nơi ở
Hà Nội
Barça đồng
3,356
CARLES COMAMALA

CARLES_COMAMALA1.jpg


Quốc tịch: Tây Ban Nha
22px-Flag_of_Spain.svg.png

Các mùa giải thi đấu cho CLB: 1903-1912
Số trận thi đấu: 145
Số bàn thắng: 172
Thành tích: 2 chức vô địch Tây Ban Nha(1909/10 và 11/12)
4 chức vô địch Catalonian (1904/05, 08/09, 09/10 và 10/11)


Carles Comamala là một người bạn đồng thời cũng là người kế nghiệp vị trí trung phong của Joan Gamper khi Gamper phải rời Barca năm 1903 trở về quê hương vì công việc gia đình. Ông được biết đến như là người sở hữu những bàn thắng thật khó tin trong thời kỳ đầu của CLB.

Có cha là người Canaries và mẹ là người xứ Basque nhưng ông được sinh ra ở Madrid năm 1887 rồi sau đó chuyển về Cataloni sinh sống. Ông không chỉ là một tiền đạo vĩ đại mà còn là con người lạ thường của thể thao lúc bấy giờ khi gắn bó sự nghiệp của mình với Barca đến khi treo giày và trở thành giám đốc của CLB từ 1909-1911. Ông cũng là người hoạt động xã hội tài ba khi sáng lập những CLB người Ailen, Galeno và trung tâm giáo dục cộng đồng đồng thờiđược biết đến như một con người của thể thao xuất chúng giống như Gamper. Ông chơi giỏi cả bóng bầu dục, bơi lội đồng thời cũng là một phóng viên. Ông được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn thể thao Catalan và cũng là một bác sĩ thể thao nổi tiếng.
Nhưng có lẽ ấn tượng nhất trong sự nghiệp của ông chính là năm 1910 khi ông dẫn dắt hàng công của Barca giúp CLB dành trọn các danh hiệu năm đó. Đây thực sự là một mốc đánh dấu sức mạnh của CLB. Ông mất năm 1976 tại Barcelona.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

denpietrau

Chuyên gia chăn Dê, diệt Cu-lét
Đầu quân
23/7/07
Bài viết
13,343
Solutions
1
Được thích
569
Điểm
113
Nơi ở
Hà Nội
Barça đồng
3,356
RAMON TORRALBA

TORRALBA_-_2.jpg


Quốc tịch: Tây Ban Nha
22px-Flag_of_Spain.svg.png

Các mùa giải thi đấu cho CLB: 1913-1928
Số trận thi đấu: 475
Số bàn thắng: 16
Thành tích: 5 chức vô địch Tây Ban Nha(1919/20, 21/22, 24/25, 25/26 và 27/28)
10 chức vô địch Catalonian (1915/16, 18/19, 19/20, 20/21, 21/22, 23/24, 24/25, 25/26, 26/27 và 27/28)

Ramon Torralba được biết đến với biệt danh "la Vella" ( Già khú đế) bởi vì ông đã gắn bó cả sự nghiệp của mình với Barca. Con người huyền thoại này đã gắn bó 15 mùa giải trong sự nghiệp để xây dựng lên một phần lịch sử của CLB.

TORRALBA.jpg

Là người cầm trịch tuyến giữa, ông luôn chịu thiệt thòi bởi sức mạnh và khả năng phán đoán không giới hạn khiến ông luôn xuất hiện trong các vùng nóng. Cùng với Sancho và Samitier, 3 người đã hình thành một hàng tiền vệ xuất chúng mà vào thời điểm đó không đội bóng nào có thể sánh được. Với vóc dáng bình thường nhưng suốt từ mùa giải 1914/15 đến 1925/26, ông vẫn giữ được một phong độ hoàn hảo trong từng bước chạy với một nền tảng thể lực phi thường. Vào mùa giải 1924/25 khi đã ngoài 30 (ông sinh năm 1887 tại Ardisa, Zaragoza) nhưng ông vẫn xỏ giày tham gia đến 42 trận. Torralba là người đầu tiên trong lịch sử Barca được CLB tôn vinh tổ chức một trận đấu chia tay ông khi giã từ sự nghiệp. Trận đấu chính thức được tổ chức trên sân Les Corts tháng 7/1928 và đồng đội Samiter đã ghi 2 bàn dành tặng ông.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

baz21

Barça B
Đầu quân
28/11/07
Bài viết
656
Được thích
1
Điểm
18
Nơi ở
HN
Barça đồng
0
JOSEP SAMITIER

samitierretrat.jpg


Quốc tịch: Tây Ban Nha
Mùa giải thi đấu cho Barca: 1918 - 1933
Số trận thi đấu: 454
Số bàn thắng: 326
Các danh hiệu:
*12 chức vô địch Catalan (1918/19, 19/20, 20/21, 21/22, 23/24, 24/25, 25/26, 26/27, 27/28, 29/30, 30/31, and 31/32)
*5 chức vô địch Tây Ban Nha (1919/20, 21/22, 24/25, 25/26, and 27/28)
*1 chức vô địch La Liga (1928/29)​

Được coi là một trong những biểu tượng trong lịch sử của FC Barcelona và cũng là trung phong xuất sắc nhất ở thời đại của mình, Josep Samitier (1902 -1972) đã lãnh đạo một Barca xuất sắc trong thời kỳ hoàng kim của CLB vào những năm 20 của thế kỷ 20.

samitier_mov.jpg

Những cú nhảy cao đáng kinh ngạc và khả năng nhào lộn của Samitier đã làm say đắm các cổ động viên của Barca, những người đã gọi thần tượng của mình bằng những biệt danh như "Tôm hùm" hay "Nhà ảo thuật". Ông luôn nhận được lời cảm ơn của các đám đông cổ động viên trên sân bóng. Samitier sở hữu một trình độ cá nhân điêu luyện và khả năng chơi bóng tuyệt vời nên đội hình của Barca luôn được xây dựng xung quanh ông. Kỹ năng chơi bóng của Samitier đã lôi kéo rất nhiều người đến theo dõi Barca và rốt cuộc là sân bóng không đủ sức chứa và CLB đã phải xây sân vận động "Les Cort" vào năm 1922.

Với Samitier trong đội hình, Barca đã giành được 12 chức vô địch Catalan, 5 chức vô địch Tây Ban Nha và chức vô địch giải La Liga đầu tiên năm 1928 - 1929. Cho dù khởi nghiệp với vị trí tiền vệ nhưng Samitier luôn được nhớ đến với tư cách là một trung phong xuất sắc. Những con số thống kế đã cho thấy rõ điều đó: Samitier ghi được 326 bàn thắng trong màu áo Barca và là chân sút vĩ đại thứ hai trong lịch sử CLB sau Paulino Alcántara.

Samitier cũng đã từng là HLV của Barcelona trong những năm 1944 -1947, giành chức vô địch La Liga mùa giải 1944 - 1945 và cúp Eva Duarte năm 1945. Với tư cách là giám đốc CLB (vị trí ông đảm nhận đến khi qua đời), Samitier chính là người đã mang Kubala về Barca vào năm 1950. Ngày 16/9/1993, tên của ông đã được đặt cho một con phố gần sân Camp Nou.
 

chimen

Juvenil A
Đầu quân
3/5/09
Bài viết
285
Được thích
0
Điểm
16
Barça đồng
0
Michael Laudrup

Michael Laudrup

3730.gif


Họ tên :Michael Laudrup
Ngày sinh 15 - 6 - 1964
Quốc tịch :Đan Mạch.
Thời gian thi đấu cho Barca :1989-1994

  • Thành tích nổi bật nhất Michael Laudrup từng đạt được là với đội bóng Tây Ban Nha FC Barcelona, nơi ông đã dành bốn chức vô địch La Liga liên tiếp, cũng như Cúp châu Âu năm 1992. Laudrup nổi tiếng với sự kiện chuyển đến đại kình địch của Barca là Real Madrid năm 1994, tại đó ông đã dành chức vô địch La Liga thứ năm trong sự nghiệp. Michael Laudrup ghi được 37 bàn trong tổng số 104 lần khoác áo Đội tuyển bóng đá quốc gia Đan Mạch, một thành tích chỉ kém của Peter Schmeichel (129 trận) và Thomas Helveg (108 trận). Từ tháng 11 năm 1994, ông làm đội trưởng của đội tuyển quốc gia Đan Mạch trong 28 trận trước khi giải nghệ tháng 6 năm 1998.
  • Năm 1999, ông được bầu chọn là cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất tại giải bóng đá Tây Ban Nha trong giai đoạn 25 năm. Đến tháng 4 năm 2000, Laudrup được phong tước hiệp sĩ, Huân chương Dannebrog. Tháng 11 năm 2003, để kỉ niệm năm thành lập UEFA, ông được Hiệp hội Bóng đá Đan Mạch bầu chọn là Cầu thủ vàng của bóng đá nước này; cầu thủ xuất sắc nhất Đan Mạch trong 50 năm qua. Tháng 11 năm 2006, Hiệp hội bóng đá Đan Mạch chính thức tôn vinh ông là cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất mọi thời đại.

    vziqg1239365047.jpg
  • Sau khi giải nghệ, Laudrup theo nghiệp huấn luyện, ông trở thành trợ lý HLV đội tuyển quốc gia Đan Mạch. Rồi làm HLV cho CLB cũ của ông là Brøndby IF năm 2002, tại đó ông đã dẫn dắt CLB này tới chức Superliga Đan Mạch.
  • Vào tháng 5 năm 2006, Laudrup quyết định không tái kí hợp đồng với Brøndby IF. Năm 2007, Brøndby IF quyết định đặt tên băng ghế chỉ đạo của ông tại sân vận động là "Băng ghế Michael Laudrup", điều này được sự chấp thuận của Laudrup.
  • Năm 2004, Michael Laudrup là một trong 3 cầu thủ Đan Mạch được Pelé bầu vào danh sách FIFA 100.
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
Luis Suarez quả bóng vàng đầu tiên trong lịch sử của Barca

SUxREZ.jpg

Tên đầy đủ: Luis Suarez Miramontes
Ngày sinh: 2 tháng 5 năm 1935
Nơi sinh: Lacoruna - Galicia - Tây Ban Nha

Luis Suárez, tên đầy đủ là Luis Suárez Miramontes (sinh 2 tháng 5 năm 1935 tại La Coruna,Galicia, Tây Ban Nha. Ông chơi ở vị trí tiền vệ. Suárez được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất của Tây Ban Nha cũng như Barcelona và Inter Milan với kĩ thuật qua người khéo léo và cú sút đầy uy lực. Năm 1960 ông là cầu thủ đầu tiên sinh trưởng tại Tây Ban Nha giành được danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu. Năm 1964 ông cùng tuyển Tây Ban Nha vô địch Euro 1964. Ông là thành viên chủ chốt của Barcelona có nhiều thành công trong thập niên 1950, trước khi chuyển tới Inter Milan. Tại đây ông cũng là thành viên quan trọng của đội bóng huyền thoại Inter trong thập niên 1960 với 2 chiếc cup C1 vào các năm 1964 và 1965. Ông kết thúc sự nghiệp cầu thủ năm 1973, sau ba mùa bóng chơi tại Sampdoria.


Khởi đầu sự nghiệp
Suárez bắt đầu sự nghiệp cầu thủ với câu lạc bộ Deportivo La Coruna năm 1949 và tham gia ở đội trẻ cho đến khi được chơi ở Liga lần đầu tiên ngày 6 tháng 12 năm 1953 trong trận thắng 6-1 trước Barcelona.. Ông chơi 17 trận và ghi được 3 bàn cho Deportivo trong mùa bóng đó. Năm 1954 ông chuyển tới FC Barcelona.


FC Barcelona
Từ 1955 tới 1961 Suárez thường xuyên có mặt trong đội hình FC Barcelona cùng với các đồng đội như Kubala, Czibor, Kocsis, Ramallets và Evaristo. Với sự dẫn dắt của Helenio Herrera huyền thoại, câu lạc bộ và Suárez giành được cú đúp năm 1959 và Liga, Fairs Cup (tiền thân của Cup Uefa) năm 1960.
fcb1959-60.gif

Đứng: Ramallets - Olivella - Rodri ,Gracia - Segarra - Gensana - Goicolea.
Ngồi: Tejada - Kubala - Eulogio ,Martinez - Luis Suárez - Czibor​

Suárez được bình chọn là Quả bóng vàng châu Âu năm 1960. Một trong những trận đấu cuối cùng của ông tại FC Barcelona là chung kết Cup C1 châu Âu năm 1961 (thua Benfica 2-3).


Xuất ngoại
Năm 1961 Suárez trở thành cầu thủ đắt giá nhât vào thời điểm đó, khi FC Barcelona chuyển nhượng ông cho Inter Milan với giá 142.000 bảng Anh. Ông tiếp bước ông thầy Helenio Herrera sang Inter. Tại đây, Suárez trở thành cầu thủ chủ chốt trong đội hình Inter vĩ đại giành được 3 chức vô địch Serie A, 2 Cup C1 và 2 Cup Liên lục địa. Từ 1961 tới 1970 ông thi đấu 328 trận cho Inter và ghi được 55 bàn.


Đội tuyển Quốc gia
Suárez chơi 32 trận cho đội tuyển Tây Ban Nha và ghi được 14 bàn thắng từ năm 1957 tới 1972. Ông có trận ra mắt vào ngày 6 tháng 12 năm 1957 trong trận đại thắng 6-1 trước đội tuyển Hà Lan và có mặt trong cả 2 World Cup: 1962 và1966.
E2.jpg

Vô địch Euro năm 1964​

Thành tích cao nhất của ông với đội tuyển Tây Ban Nha là chức vô địch Euro 1964 với các đồng đội.


Thành tích:

Barcelona
:
Vô đich TBN: 1958-1959; 1959-1960
Cúp quốc gia: 1958-1959
Fairs Cup: 1957-1958; 1959-1960

Inter
Vô đich Italia: 1962-1963; 1964-1965; 1965-1966
Cup C1: 1963-1964; 1964-1965
Cup Liên lục địa 1964, 1965

Đội tuyển quốc gia
Vô đich Euro 1964

Thành tích cá nhân
QBV Châu Âu năm 1960

Các CLB trong sự nghiệp

1953-1954: Deportivo La Coruna (17 trận 3 bàn thắng)
1954-1955: CD Espana Industrial
1954-1961: Barcelona (122 trận 61 bàn thắng)
1961-1970: Inter Milan (256 trận 42 bàn thắng)
1970-1973: Sampdoria (63 trận 9 bàn thắng)

Huyền thoại Luis Suárez Miramontes đã qua đời ngày 09/7/2023.

mini_2015-04-29LUISSUAREZENTREGAPILOTAORALMUSEU-VICTOR_pic_2015-04-29_pilotaorsuarez_29.jpg
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
Deco
images

Tên đầy đủ: Anderson Luis de Souza
Ngày sinh: 27/08/1977
Quốc tịch: Brazil/Bồ Đào Nha

Anderson Luis de Souza, (sinh 27/08/1977 tại Soo Bernado De Campo, Brazil) là một cầu thủ nổi tiếng người Brazil và Bồ Đào Nha, được biết đến nhiều nhất với cái tên Deco.

Khởi đầu sự nghiệp
Deco chính thức bắt đầu sự nghiệp cầu thủ ở của mình ở Nacional, một câu lạc bộ nhỏ thuộc thành phố Sao Paulo vào năm 1995. Hai năm sau, anh chuyển sang thi đấu cho Corinthians, và giúp câu lạc bộ của Sao Paulo này giành danh hiệu vô địch giải U20 quốc gia Brasil. Tuy vậy khi lên đẳng cấp chuyên nghiệp, anh có biểu hiện quá non nớt và sớm bị chuyển sang Corintians Alagoano. Tại đây anh thể hiện tốt và dần được các câu lạc bộ châu Âu chú ý.
Deco sang Bồ Đào Nha vào năm 1997 ở tuổi 19 cùng với bạn là cầu thủ Caju người Brasil, sau lời mời sang Lisbon gia nhập Benfica. Bất chấp thể hiện tốt của anh khi tập luyện, Benfica không để anh đá trận nào mà còn đưa cho Alverca mượn một mùa giải. Deco chơi xuất sắc, anh đề nghị ký một hợp đồng mới với Benfica và chơi ở đội hình chính. Tuy nhiên, câu lạc bộ của Lisbon và đại diện của Deco đã không đạt được thỏa thuận; người chủ tịch đương nhậm là Graeme Souness chưa tin tưởng mấy vào khả năng của anh. Sau đó Deco đã phải sang, Salgueiros , một câu lạc bộ bé bỏng ở Porto chơi hết mùa bóng 98-99. Tại đây anh chơi 12 trận và ghi 2 bàn. Sự thể hiện tốt giúp Deco lọt vào mắt xanh của ban lãnh đạo Fc Porto, và tại kỳ chuyển nhượng mùa đông năm đó, anh trở thành người của Porto.

Porto: Thành công ban đầu
Thời gian đầu tại Porto, trải qua một sự huấn luyện nghiêm khắc của Jose Mourinho, anh dần trở thành một người kiến tạo bóng tốt và được người hâm mộ ở Porto đặt cho biệt danh "Magico" ("nhà ảo thuật") vì khả năng xử lý bóng của mình. Anh được biết tới như là một cầu thủ có thiên chất, cần mẫn cả trong vai trò công lẫn thủ, nhưng có lối chơi rất rắn. Những điều đó đã mang lại cho anh đủ cả, vừa có nhiều đường chuyền quyết định, vừa có nhiều bàn thắng và vừa có nhiều thẻ phạt. Deco cũng có những tính khí thất thường khiến ban lãnh đạo Porto nhiều khi không bằng lòng. Tuy nhiên, anh vẫn là cầu thủ chủ chốt của đội trong những chiến dịch thành công đầu những năm 2000.
Dưới sự chỉ đạo của Jose Mourinho, Deco trở thành người dẫn dắt lối chơi của Porto. Vào mùa bóng 2002-03, anh thực sự tỏa sáng khi ghi 10 bàn sau 30 trận đấu (cũng cần kể thêm 17 thẻ vàng và 1 thẻ đỏ). Năm đó anh là nhân vật chính yếu tại trận chung kết Cup UEFA 2002-03 khi Porto đả bại Celtic 3-2.
Mùa bóng tiếp theo (2003-2004), Deco cùng Porto trở lại đấu trường lớn nhất châu Lục và giúp đội bóng tiến đến trận chung kết Champion League, nơi mà họ thắng Monaco 3-0 và lên ngôi vô địch, 1 bàn trong đó là của Deco.
Deco-Porto.jpg

Tỏa sáng tại Champion League 2004​
Anh là cầu thủ có nhiều đường chuyền thành bàn nhất tại Champions League và cũng là người phạm lỗi nhiều nhất mùa này. Với những thể hiện đó, anh nhận giải thưởng "cầu thủ sáng giá nhất châu Âu" và danh hiệu "tiền vệ xuất sắc nhất châu Âu" mùa bóng 2003-2004.

Barcelona: Tầm cao mới
Vào ngày 17 tháng 06 năm2004, Deco phát biểu trên một đài phát thanh tiếng Bồ rằng anh sắp gia nhập đội bóng Anh Chelsea (lúc ấy được dẫn dắt bởi Mourinho) sau Euro 2004. Mọi chuyện ngỡ là sắp xong xuôi khi anh bảo 2 bên đã thỏa thuận, và chỉ cần trải qua một cuộc kiểm tra thể lực là anh sẽ ký được hợp đồng với Chelsea.
Song, đến ngày 26 tháng 06 năm 2004 anh lại nói trên O Jogo, một nhật báo tiếng Bồ Đào Nha rằng anh sẽ sang Barcelona hơn là theo Mourinho tới Chelsea. Vài ngày sau anh gia nhập Barcelona với giá chuyển nhượng 12 triệu Euro và tiền vệ Quaresma của Barcelona sẽ sang Porto như một khoản trong hợp đồng. Theo đó Deco sẽ là người của Barcelona.
Tại Barcelona, một vài ý kiến cho rằng Deco sẽ bị Ronaldinho che khuất. Ban đầu các cổ động viên đón nhật sự kiện này với ánh mắt lo ngại, vì vị trí tiền vệ công sở trường của Deco lại là nơi mà Ronaldinho đang thực hiện nhiệm vụ của mình rất tốt. Nhưng huấn luyện viên Franks Rijkaard đã giải quyết được việc này, ông để Deco chơi như một tiền vệ trung tâm, nơi mà những phẩm chất điều khiển trận đấu, năng lực phòng ngự nơi anh sẽ phát huy hiệu quả. Vào tháng 12 năm 2004, Deco về thứ 2 trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng Châu Âu 2004 sau Andry Shevchenko và hơn đồng đội Ronaldinho 6 phiếu bầu.
Vào ngày14 tháng 05 năm 2005, Deco chơi trong trận đấu hòa với Levante, giúp Barcelona đạt được chức vô địch La Liga lần thứ 17 của họ.
Deco đã ghi 2 bàn trong 1 trận đấu ở Siêu cup TBN mùa bóng 06-07, giúp Barca chiến thắng. Anh được trao danh hiệu Tiền vệ xuất sắc nhất châu Âu một lần nữa với những thể hiện tại mùa bóng 2005, khi mà Barcelona vô địch Champions League, chức vô địch này cũng đưa anh vào danh sách hiếm hoi những cầu thủ đạt được chức vô địch châu Âu với 2 câu lạc bộ (lần trước là với Porto).
45194579-cup-vang.jpg

Vô địch Champion League lần thứ hai trong màu áo Barca​

Kết thúc mùa giải, anh được nhận danh hiệu Quả bóng vàng tại Fifa Club World Cup và là Cầu thủ xuất sắc nhất trận chung kết mà Barcelona đã để thua Internacional
Mùa giải 2007/2008, anh liên tục bị chấn thương hành hạ đã để mất vị trí chính thức vào tay tiền vệ trẻ Iniesta. Không chỉ có vậy, khi huấn luyện viên Frank Rikaard bị sa thải, Deco cũng không còn được đảm bảo vị trí chính thức dưới thời tân huấn luyện viên trưởng Barcelona, Pep Guardiola.
Không được Barcelona trọng dụng nhưng tài năng của Deco vẫn được các câu lạc bộ khác đánh giá rất cao và điều đó được thể hiện qua việc huấn luyện viên Scolari trao cho anh vai trò tổ chức trong đội tuyển Bồ Đào Nha tại Euro 2008 và ngay sau khi chuyển sang dẫn dắt Chelsea, ông đã nhanh chóng thúc giục chủ tịch Roman Abramovich mua bằng được tiền vệ dẫn dắt lối chơi này

Chelsea FC
Ngày 30 tháng 06 năm 2008, hợp đồng chuyển nhượng của Deco tới Chelsea được hoàn tất kết thúc 4 năm chơi bóng của anh tại Barca.

Đội tuyển quốc gia
Dù thi đấu rất thành công tại câu lạc bộ, nhưng chưa bao giờ Deco được gọi vào đội tuyển Brazil. Anh đã đề cập vài lần về khả năng chơi cho Bồ Đào Nha. Vào năm 2002, sau sáu năm sống và thi đấu tại Bồ Đào Nha, anh đã được nhập quốc tịch. Vài ngày sau sự kiện này, Luiz Felipe Scolari, một người Brasil đang dẫn dắt tuyển Bồ Đào Nha cho gọi Deco vào đội tuyển. Việc làm của Scolari đã gây ra nhiều phản đối, song cũng nhận được sự ủng hộ từ phía FC Porto. Cuối cùng, sau nhiều tranh luận sôi nổi, Deco cũng được thi đấu trận đầu tiên trong màu áo Bồ Đào Nha; trùng hợp thay đó lại là trận đấu với đội bóng quê hương mình, diễn ra trên sân Estadio Des Antas ngày 29 tháng 03 năm 2003. Anh chỉ chơi 9 phút trong trận đó, nhưng đủ để ghi một bàn vào lưới Brasil từ quả phạt trực tiếp, giúp Bồ Đào Nha thắng 2-1.
45200320-deco-phai.jpg

Trong màu áo đội tuyển Bồ Đào Nha​

Sau trận đấu này, anh trở thành nhân vật thường xuyên trong đội tuyển quốc gia, tuy vẫn chịu sự kỳ thị từ phía Luis Figo, người mà rất lâu sau cũng chưa chịu chấp nhận giá trị của một cầu thủ ngoại quốc xin nhập quốc tịch, và thường gọi đó là thủ đoạn "lợi dụng". Bất chấp mọi bình phẩm, Deco dần tỏa sáng trong đội hình tuyển quốc gia Bồ Đào Nha và đến hôm nay đã trở thành nhân vật chủ chốt của đội.

Thành tích

Champion League: 2004, 2006

Uefa Cup: 2003

Vô đich Quốc Gia BĐN: 1999, 2003, 2004

Cup Quốc Gia BĐN: 2000, 2001, 2003

Siêu Cup BĐN: 1999, 2001, 2003

Vô địch Quốc Gia TBN: 2005, 2006

Siêu Cup TBN: 2005, 2006

Danh hiệu cá nhân

Cầu thủ xuất sắc nhất Uefa Champion League 2004

Quả bóng bạc Châu Âu 2004

Tiền vệ xuất sắc nhất Uefa Champion League 2006​
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
Ronaldinho người đánh thức gã khổng lồ Barca
images

Tên đầy đủ: Ronaldo de Assis Moreira
Ngày sinh: 21 tháng 03 năm 1980
Nơi sinh: Porto Alegre-Brazil
Vị trí: Tiền vệ công

Ronaldinho tên thật là Ronaldo de Assís Moreira, anh sinh ra và lớn lên tại Porto Alegre, Rio Grande do Sul. Bố và anh trai của Ronaldinho đều từng là cầu thủ, tuy nhiên do căn bệnh tim quái ác, thân phụ của anh, ông Joan đành phải nói lời chia tay với bóng đá khi tiền vệ răng vâu vừa tròn 8 tuổi. Có lẽ kế thừa từ người cha, ngay từ khi còn là 1 cậu nhóc, Ronaldinho đã thể hiện được những phẩm chất của 1 cầu thủ giỏi. Dần dần, cái tên Ronaldo được những người yêu mến tài năng bóng đá của anh gọi bằng Ronaldinho (có nghĩa là Ronaldo nhỏ).

Ronaldinho khởi đầu sự nghiệp bóng đá lẫy lừng của mình trong những trận bóng đá bãi biển và futsal (bóng đá trong nhà). Tài năng của Ronaldinho bắt đầu lọt vào mắt xanh của các nhà tuyển mộ khi anh ghi tới… 23 bàn thắng trong trận đấu mà đội bóng địa phương của anh đã thắng đối thủ 23-0. Và bước ngoặt thực sự trong cuộc đời Ronnie đã tới khi anh tỏa sáng tại giải U17 Egypt 1997 với 2 bàn thắng trên chấm 11m.
Ronaldinho bắt đầu chơi bóng chuyên nghiệp trong màu áo Grêmio. Dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của HLV Celso Roth, Ronaldinho dần hoàn thiện những kỹ năng rất cơ bản trong bóng đá và có thêm cơ hội cọ xát thực sự. Anh được tham dự cúp Libertadores năm 1998 và cũng tại giải đấu đó, không ít nhà tuyển mộ trên toàn thế giới đã phải ngả mũ kính phục trước tài năng bẩm sinh, những cú đi bóng đầy quyến rũ của chàng tiền vệ răng vâu này. Đây cũng chính là nhân tố giúp Ronaldinho có mặt trong ĐT Brazil 1 năm sau đó.

Bước ra trời Âu
Năm 2001, có lẽ cảm thấy mình đã đủ lông đủ cánh, Ronaldinho quyết định rời bỏ quê nhà ra nước ngoài thi đấu. Vào thời điểm đó, không ít những CLB lớn trên thế giới bao gồm cả MU thèm muốn sự phục vụ của anh, nhưng không muốn tiến 1 bước quá dài, Ronnie quyết định đầu quân cho Paris Saint-Germain.
104188641.jpg

Trong màu áo PSG​

Những năm tháng đầu tiên chơi bóng tại nước ngoài của Ronaldinho diễn ra không hề suôn sẻ như dự kiến. Anh dính líu vào vụ làm giả hộ chiếu và phải trú chân tại 1 CLB có tên St Mirren 1 thời gian trước khi quay lại với PSG. Mặc dù vậy, có lẽ cảm thấy choáng ngợp vì cuộc sống phồn hoa trên đất Pháp, Ronaldinho luôn bị HLV trưởng Luis Fernandez chỉ trích, ông cho rằng tiền vệ người Brazil thích những đêm Paris náo nhiệt hơn là chơi bóng đá, anh cũng thường xuyên tập trung muộn sau những lần về quê nhà nghỉ phép.
Tuy nhiên những ảnh hưởng ngoại cảnh không thể làm thui chột 1 tài năng lớn của bóng đá thế giới. Tại World cup 2002, Ronaldinho đã chứng tỏ được bản thân và tên tuổi của anh cũng bắt đầu tạo được tiếng vang trên toàn thế giới. Và rốt cuộc điều gì đến cũng phải đến, chiếc áo của PSG quá chật chội so với tài năng của Ronaldinho, anh quyết định ra đi không phải vì PSG thất bại trong cuộc đua tới trời Âu, mà Ronnie muốn mở ra 1 con đường mới – con đường hướng đến đỉnh cao thế giới.

Barcelona: Bước ngoặt vĩ đại
Nhiều culé hẳn vẫn còn nhớ lần đầu tiên cái tên của Ronaldinho được nhắc đến ở Nou Camp. Đó là mùa Hè 2003, khi Joan Laporta vừa thắng trong cuộc bầu cử chủ tịch.
Trong quá trình vận động tranh cử, Laporta đã hứa mua tiền vệ lừng danh David Beckham của Man United về cho các culé. Nhưng do bất ngờ bị Real Madrid nẫng tay trên, không còn cách nào khác, Laporta buộc phải chuyển hướng. Thế là Ronaldinho khăn gói rời PSG, bắt đầu chuyến phiêu lưu mới ở xứ sở Bò tót.
ronaldinho.jpg

Vào ngày 19/7/2003, Ronaldinho chính thức đặt bút ký vào bản hợp đồng có giá trị 21 triệu Bảng với CLB Barcelona – 1 kỷ nguyên mới trong sự nghiệp của Ronnie bắt đầu.

Một huyền thoại của sân Nou Camp đã xuất hiện như thế. Nếu khi mới đến, Ronaldinho chỉ là một ngôi sao bắt đầu nổi lên thì sau đó ở Barca, tất cả những tinh hoa của anh đã được phát tiết. Đội bóng xứ Catalan đã trở thành bệ phóng để tên tuổi của Ronaldinho được “phủ sóng” toàn cầu. Từ đó, những danh hiệu cá nhân cứ liên tục đến với Ronnie. Anh giành danh hiệu “Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới” vào các năm 2004 và 2005. Anh cũng giành “Quả bóng Vàng” châu Âu cao quý trong năm 2005…

Khởi đầu của Ronaldinho tại Barca cũng gặp chút trục trặc, trong những tháng đầu mùa giải 2003/04, Ronaldinho bị chấn thương và phải ngồi ngoài trong khi đó Barca thi đấu kém cỏi và rơi xuống giữa BXH.
Tuy nhiên khi trở lại, như cá gặp nước, Ronaldinho bộc lộ toàn bộ những gì tiềm ẩn bấy lâu trong con người mình dưới sắc áo Barca. Những pha đi bóng đầy ma thuật, những bàn thắng không thể lẫn vào đâu đã đưa cậu bé Ronaldo de Assís ngày nào lên đỉnh cao thế giới. Ronaldinho trở thành 1 mảnh ghép không thể thiếu trong đội hình Barca, và quan trọng hơn cả, anh là nỗi khiếp sợ của tất cả các hàng hậu vệ trên toàn thế giới.
Mùa giải 2004/05, cùng với Samuel Eto'o, Deco, Xavi, Ludovic Giuly và Henrik Larsson, Ronaldinho giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới do FIFA bình chọn, tuy nhiên cũng trong năm đó, Barca của Ronaldinho bị Chelsea loại khỏi Champions League ngay từ vòng knock-out đầu tiên, bản thân anh lại dính líu vào vụ xô xát với 1 vài nhân viên an ninh của Chelsea.
Thành công vẫn liên tiếp đến với Ronaldinho trong năm kế tiếp. Anh tiếp tục được Hiệp hội cầu thủ chuyên nghiệp bầu tôn vinh là cầu thủ xuất sắc nhất năm và lọt vào đội hình tiêu biểu của năm.
Kế đó, sau màn trình diễn không thể tuyệt vời hơn tại Champions League giúp Barca đăng quang, cái tên Ronaldinho lại được tôn vinh là Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu và cùng thời gian đó, anh trở thành người Brazil thứ 3 đoạt danh hiệu cao quý: Quả bóng vàng.
20516905_images833709_11311281936.jpg

Thâu tóm mọi danh hiệu cao quý nhất của bóng đá TG trong màu áo của Barca​

Chưa 1 năm nào danh hiệu Quả bóng vàng lại được định đoạt dễ dàng đến vậy, Ronaldinho bỏ xa người cạnh tranh với anh, Frank Lampard tới gần 600 điểm. Có thể nói, mùa giải 2005/06 thực sự là 1 mùa bóng trong mơ của Ronaldinho, anh đoạt hầu hết các danh hiệu cao quý của 1 cá nhân, nhưng quan trọng hơn cả, chàng vẩu khiến cả thế giới phải ngả mũ kính phục trước tài năng của mình.

Đỉnh cao và vực sâu
Kết thúc 1 năm trên thiên đường, không 1 ai dám nghĩ Ronaldinho lại rơi xuống địa ngục nhanh và chóng vánh đến vậy. 2 năm sau đó, anh dần mờ nhạt trong màu áo Barca, 1 công thần, 1 cầu thủ tưởng như không thể thiếu của xứ Catalan lại dần xuất hiện ít đi trên sân cỏ, nhưng ngược lại, với mật độ dày đặc hơn trên các trang báo.
Ronaldinho bắt đầu thừa cân và ngập ngụa trong những lời chỉ trích. “Tôi sẽ sớm lấy lại phong độ”, “Anh ấy không phải là 1 robot”, “Rồi cậu ấy sẽ sớm trở lại với thời đỉnh cao của mình”… hàng loạt những phát biểu, trấn an, động viên dành cho Ronaldinho của NHM và cả của anh xuất hiện nhiều vô số kể trên các mặt báo, nhưng rồi tất cả đều vô nghĩa.
Ham muốn chứng tỏ bản thân 1 cách thái quá khiến Ronaldinho trở nên kệch cỡm mỗi khi xuất hiện trên sân. Anh cố gợi lại ký ức đẹp của 1 thời đỉnh cao trong mắt người hâm mộ, nhưng đều thất bại. Cú ngã sau 1 pha đi bóng sở trường và khuôn mặt ngao ngán nhìn về phía đồng đội đã nói lên tất cả, Ronaldinho đã trở thành cái bóng của chính mình.
Và rốt cuộc điều gì đến cũng phải đến, mối lương duyên đẹp giữa Ronaldinho và Barcelona đã không thể cứu vãn, anh quyết định ra đi đầu quân vào "nhà từ thiện" Milan.
5 năm Ronaldinho ở Barca. 145 lần ra sân với 70 lần sút tung lưới đối phương. Trong đó, có vô số những bàn thắng mang tính bước ngoặt trên đường đến đỉnh vinh quang của Barca, có vô số những pha bóng siêu nghệ thuật, vượt khỏi trí tưởng tượng của mọi người… không ít culé thậm chí vẫn nói vui rằng, giá như ngày đó Laporta không mua hụt Beckham và chuyển hướng sang Ronaldinho, Barca có lẽ đã chẳng giành được gì hết. Sẽ không có chức vô địch La Liga mùa 04/05, cũng chẳng có “cú đúp” vô địch La Liga và Champions League ở mùa giải kế tiếp.
Chừng đó quá đủ để các culé yêu anh, nhớ về anh. Quá đủ để xóa đi tất cả những gì u ám về Ronnie trong khoảng gần 2 năm cuối của anh ở Nou Camp.



Các CLB trong sự nghiệp

1998-2001: Gremio ( 35 trận 14 bàn thắng )
2001-2003: PSG ( 55 trận 17 bàn thắng )
2003-2008: B arcelona ( 145 trận 70 bàn thắng )
2008- ? : Ac Milan

Danh Hiệu

Với FC Barcelona
• Vô địch Quốc gia Tây Ban Nha: 2005, 2006
• Siêu Cúp Tây Ban Nha: 2005, 2006
• Cúp C1 Châu Âu: 2006

Với đội tuyển Quốc gia
• Cup bóng đá Thế giới U17 - FIFA U-17 World Cup: 1997
• Vô địch Nam Mỹ - Copa América: 1999
• Cúp bóng đá Thế giới - FIFA World Cup: 2002
• Cúp các liên đoàn các Châu lục - FIFA Confederations Cup: 2005
Thế vân hội mùa hè 2008: Huy chương đồng.


Danh hiệu cá nhân
• Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá thế giới U-17 năm 1997
• Vua phá lưới 1999 FIFA Confederations Cup: 1999
• Quả bóng vàng 1999 FIFA Confederations Cup: 1999
• Vua phá lưới Rio Grande do Sul State Championship: 1999
• 2002 FIFA World Cup: 2002
• Những cầu thủ vĩ đại nhất còn sống (FIFA100): Một trong 125 cầu thủ vĩ đại nhất còn sống.
• Cầu thủ nước ngoài hay nhất tại La Liga (Don Balón Award) : 2004, 2006
• Cầu thủ Mỹ-La tinh hay nhất tại La Liga (EFE Trophy): 2004
• Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới (của FIFA): 2004, 2005
• Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu của năm: 2005
• Tiền đạo - cầu thủ xuất sắc nhất cấp câu lạc bộ (của UEFA): 2004, 2005
• Cầu thủ của năm cấp câu lạc bộ (UEFA): 2005-06
• Đội bóng của năm (UEFA): 2004, 2005, 2006
• Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của Hiệp hội các cầu thủ chuyên nghiệp quốc tế (FIFPro): 2005, 2006
FIFPro World XI: 2005, 2006, 2007​

Nguồn: Tổng hợp.
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
Ronaldo "người ngoài hành tinh" vĩ đại
images

Tên đầy đủ: Ronaldo Luiz Nazario de Lima
Ngày sinh: 22 tháng 9 năm 1976
Nơi sinh: Rio de Janeiro - Brazil
Vị trí thi đấu: Trung phong

Ronaldo Luis Nazário de Lima sinh 22 tháng 09 năm 1976 tại Rio de Janeiro), thường được biết với tên Ronaldo, là một cầu thủ bóng đá người Brasil.. Ronaldo có biệt danh là "Người ngoài hành tinh" . Vua bóng đá Pelé đã xếp Ronaldo vào danh sách 125 cầu thủ còn sống xuất sắc nhất tháng 3 năm 2004. Năm 1999, tạp chí World Soccer xếp anh đứng hạng 9 trong danh sách 100 cầu thủ hay nhất thế kỉ 20. Năm 2007 tạp chí France Football đã bầu anh vào đội hình 11 cầu thủ giỏi nhất mọi thời đại, nhưng đối với nhiều người nói đến Ronaldo đơn giản là nói đến cầu thủ hay nhất mọi thời đại.

Ronaldo sinh ra trong một gia đình nghèo khó sống ở khu ngoại ô Bento Ribeiro, đây là nơi anh làm quen với bóng đá đường phố từ tuổi ấu thơ.
Lúc nhỏ anh không ham học nhưng rất mê đá bóng. Anh thường nói: "Tại Brasil, đường phố là trường đại học tốt nhất mà bạn có thể theo học". Gia đình anh khá bất ổn, cha mẹ ly dị vào năm anh 17 tuổi. Lúc ấy Ronaldo chơi cho Cruzeiro và là người kiếm tiền nuôi gia đình. Tài năng bóng đá của anh phát triển rất sớm

Sự nghiệp CLB

Ronaldo khởi đàu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp của mình tại CLB Cruzero vào năm 1993 sau những thể hiện ấn tượng tại CLB Sao Cristovao và đội tuyển U 17 Brazil.
Anh ghi được 58 bàn sau 60 trận đấu khoác áo Cruzero trong đó có 5 bàn thắng ghi trong một trận đấu một thành tích quá đáng nể đối với một chàng trai mới 17 tuổi.
Tuy nhiên mùa giải 1993 - 1994 đó cũng là mùa giải duy nhất mà người dân Brazil được chứng kiến anh thi đấu cho một đội bóng quê nhà cho đến mãi về sau .

PSV : Nơi ươm mầm của một thiên tài

Năm 1994 sau World Cup tại Mỹ, tuy không ra sân trận nào nhưng Ronaldo đã được sự chú ý của rất nhiều câu lạc bộ châu Âu. Và PSV Einhoven đã nhanh tay có được anh bằng một hợp đồng trị giá 4 triệu bảng.
_44427491_ronaldo_psv.jpg

Trong màu áo của PSV​

Anh tự giới thiệu mình khá đau đớn với các fan của đội bóng Hà Lan bằng một cú va đầu vào cửa sân bay. Nhưng sau đó đã ghi được tới 34 bàn sau 37 trận trong mùa đầu tiên, trở thành vua phá lưới của giải: một thành tích phi thường với một cầu thủ 18 tuổi.
Chỉ 2 năm chơi bóng tại Hà Lan, nơi anh đã ghi đến 42 bàn sau 46 trận tại giải VĐQG Hà Lan, 55 bàn trong 57 trận chính thức cho PSV.
Tuy nhiên ở mùa bóng 1995 - 1996, anh bị một chấn thương nặng nơi đầu gối làm cho phải thường xuyên ngồi ngoài sân. Khi ấy Inter và Barcelona đều tỏ ý muốn ký hợp đồng với ngôi sao này. Và PSV Einhoven đã nhanh chóng thương lượng với cả hai. Mùa hè năm 1996, Barcelona chính thức có được Ronaldo sau một vụ kiện tại Bosman, mà Inter Milan đã thua cuộc do không có đủ 20 triệu bảng tiền chuyển nhượng.

Barcelona: Người ngoài hành tinh xuất hiện

Và tại sân Nou Camp, thế giới mới thực sự ngả mũ cúi chào trước cuộc chinh phục của chàng trai Brazil trẻ tuổi.
Ngay trong mùa giải đầu tiên chơi cho Barcelona, một trong những câu lạc bộ lớn nhất thế giới, Ronaldo đã khẳng định mình là một siêu sao đích thực.
1247125158-ronaldo-barca.jpg

Pha tranh bóng với Roberto Carlos trong trận cầu siêu kinh điển​

Anh đã thể hiện một cách chơi bóng riêng biệt, với sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa tốc độ và kỹ thuật cá nhân, cộng với tinh thần chiến đấu ở mức cao nhất, những bước chạy thần tốc, khả năng ghi bàn kinh hoàng, 47 bàn thắng trong 49 trận chính thức cho Barca, trong đó nổi tiếng nhất là bàn thắng trong trận gặp Compostela ngày 13 tháng 10 năm 1996 tại giải La Liga pha ghi bàn trong cú nước rút dài 55m, kéo dài 15 giây, vượt qua sự đeo bám, chặt chém của 8 cầu thủ Compostela mãi là hình ảnh đáng nhớ nhất của Ronaldo trong màu áo đội bóng Catalan.
Càng ngày, Ronaldo càng nổi tiếng. Những bàn thắng của anh được chiếu đi chiếu lại nhiều lần trên khắp thế giới, Cuối giải, anh là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất v ới 34 bàn thắng sau 37 trận. Mùa giải ấy Barcelona không vô địch La Liga, nhưng Ronaldo đã góp công lớn đưa đội đoạt cúp Tây Ban Nha và cúp C2 sau khi vượt qua đội bóng nước Pháp PSG.
30164753_Ronaldo-barca-31107-s.jpg

Vô địch Cup C2 trong màu áo Barca​

Với những thể hiện xuất sắc trong năm đầu tiên chơi cho Barcelona F.C., Ronaldo được bạn đọc của tạp chí World Soccer bầu cho nhiều danh hiệu cao quý, trở thành Cầu thủ xuất sắc nhất trong năm. Sau đó được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA - ở tuổi 19, anh là người trẻ nhất đoạt danh hiệu này trong lịch sử. Trong lần bình chọn cho Quả bóng vàng châu Âu, anh về hạng nhì và chỉ thua người về nhất Matthias Sammer 1 điểm.
"Hơn cả Pele, hơn cả Maradona, chàng trai này đã chinh phục cả một đất nước" - đó là lời tán tụng mà đã được Marca, một tờ báo của người Madrid, dành cho Ronaldo, một cầu thủ của Barca.
Suốt trong 2 năm 96-97 , Ronaldo - được gọi là " người ngoài hành tinh " - hầu như không có đối thủ cạnh tranh xứng đáng trong cuộc bình chọn .
Năm 1997, trong khi Ronaldo đang ở Bolivia để đá cho đội tuyển quốc gia, câu lạc bộ Ý Inter Milan đã đến Barcelona để thương lượng về việc chuyển nhượng. Barcelona không chịu thoả thuận song Ronaldo đã quyết định mua lại hợp đồng trị giá 18 triệu bảng Anh để được chuyển sang chơi cho Serie A. Lại thêm một vụ kiện giữa hai đội bóng lớn và lần này FIFA đã xử Inter thắng kiện.
Tuy chỉ gắn bó với Barca trong một mùa giải nhưng những gì Ronaldo để lại chắc không thể phai nhạt được trong tâm trí của mỗi Culé dù về sau anh có ra đi để khoác áo Inter hay trở lại Liga trong màu áo của siêu đại kình địch Real Madrid.

Đội tuyển quốc gia: vui buồn qua các kì Wourld Cup.

Ở vị trí tiền đạo, Ronaldo có được nhiều thành công trên đấu trường quốc tế: vô địch World Cup 1994 và World Cup 2002 cùng đội tuyển Brasil. Với 15 bàn thắng qua 3 kì World Cup, Ronaldo đang giữ kỉ lục ghi bàn tại đấu trường bóng đá lớn nhất này.

Ronaldo được gọi vào đội tuyển quốc gia Brasil vào năm 1994, dự World Cup tại Mỹ nhưng không đá trận nào. Mãi đến tháng 10 năm 1995, sau khi ghi 2 bàn vào lưới tuyển Uruquay trong trận thắng đội này 2- 0, Ronaldo bắt đầu được trọng dụng. Anh trở thành một cầu thủ trụ cột trên hàng công cùng với Romário, tạo thành cặp bài trùng Ro - Ro nổi tiếng thế giới một thời.
Tại World Cup 1998, Ronaldo được bầu là cầu thủ chơi hay nhất giải (tính tới trước trận chung kết) với 4 bàn thắng ghi được và 4 pha chuyền bóng lập công. Bàn thắng đầu tiên anh ghi được tại World Cup là trong trận gặp Maroc. Sau đó là một cú đúp khi đối đầu với đội tuyển Chile - một đội bóng được đánh giá cao với cặp Marcelo Salas - Iván Zamorano nổi tiếng.
Tại trận bán kết gặp đội tuyển Hà Lan - trận đấu được bầu là hay nhất trong các kỳ World Cup - Ronaldo đã ghi một bàn thắng quan trọng. Đó là một bàn thắng khó: nhận được đường chuyền của đồng đội trong sự kèm cặp của Edgar Davids và Deboe, Ronaldo đã khéo léo đẩy bóng luồn qua hai chân của Edwin van der Sar đưa bóng vào lưới. Anh cũng góp công cho chiến thắng của Brasil trong loạt sút luân lưu 11m khi hoàn thành bổn phận của mình.
1998a.jpg

Hình ảnh tiêu biểu về thất bại của Brazil tại World Cup 1998​

Nhưng ở trận chung kết gặp Pháp, vì một dấu hiệu không tốt về thể trạng, Ronaldo đá không tốt và Brasil thất bại dưới tay đội tuyển Pháp bằng một tỉ số đậm đà: 0 - 3

Năm 2002, huấn luyện viên Felippe Scolari ghi tên anh vào danh sách dự World Cup. Ban đầu không ai hi vọng nhiều vào Ronaldo, nhưng Scolari vẫn cho anh chơi ở vị trí trung phong, cùng với Rivaldo và đáp lại sự tin tưởng của người thầy phong độ cực kì ấn
tượng của Ronaldo tại giải năm đó đã giúp Brazil chinh phục chiếc cup vàng danh giá lần thứ 5 trong lịch sử.
1538893157.jpg

Vô địch World Cup 2002​

Cuối giải, Ronaldo giành danh hiệu vua phá lưới với 8 bàn thắng, phá vỡ mức 6 bàn của một vua phá lưới đã có từ năm 1986.
Mùa hè năm 2006, Ronaldo theo đội tuyển đến Đức tham dự World Cup 2006. Dù thể trạng nặng nề và phong độ tại cấp câu lạc bộ có vẻ xuống, anh vẫn được các tổ chức cá cược đặt cược cao nhất cho danh hiệu vua phá lưới.

World Cup 2006 tuy là một thất bại của tuyển Brasil, nhưng cũng có thể xem là một thành công đối với cá nhân Ronaldo khi anh đã chính thức xô đổ kỉ lục của Gerd Müller để trở thành chân sút xuất sắc nhất qua mọi kỳ World Cup với 15 bàn thắng..


CLB chuyên nghiệp

* 1993 - 1994: Cruzerio 14 trận (12) (trong ngoặc là số bàn thắng)
* 1994 – 1996: PSV Eindhoven 46 trận (42)
* 1996 - 1997: FC Barcelona 37 (34)
* 1997 – 2002: Inter Milan 69 (49)
* 2002 - 2007: Real Madrid 98 (69)
* 2007 - : AC Milan 10 (7)

Đội tuyển quốc gia 1994–nay Brasil 97 (62)

Cá nhân

Vua phá lưới World Cup 2002
Giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA do các huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia bầu chọn các năm 1996 (trẻ nhất), 1997, 2002, Á quân giải này năm 1998, hạng 3 giải này năm 2003
Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới các năm: 1996, 1997, 2002
Giải Quả bóng vàng châu Âu do các phóng viên thể thao châu Âu bầu chọn các năm 1997, 2002
Bóng Onze: 1997, 2002
Cầu thủ xuất sắc nhất UEFA: 1998
Chiếc giày vàng châu Âu: 1997
Vua phá lưới Copa America 1997
Vua phá lưới La Liga: 1996-1997, 2003-2004
Vua phá lưới giải vô địch Hà Lan: 1994-1995
Cầu thủ trong năm: 2002
Chiếc giày vàng: 2006

Cúp thế giới

Cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong các kỳ World Cup: 15 bàn sau 19 trận, 3 kỳ.
2006: Chiếc giày bạc (3 bàn thắng)
2002: Vua phá lưới (8 bàn thắng)
2002: Quả bóng bạc
2002: Đoạt chức vô địch
1998: Quả bóng vàng
1998: Chiếc giày bạc (4 bàn thắng)
1994: Đoạt chức vô địch (trong đội hình dự bị)

Cúp châu lục và quốc gia

Brazilian Cup: Cruzeiro 1993
Dutch Cup: PSV Eindhoven 1996
Cup C2: FC Barcelona 1997
Confederations Cup: 1997
Copa América: 1997, 1999
UEFA Cup: Internazionale 1998
Cup Liên Lục Đia: Real Madrid 2002
Siêu Cup Ch âu Âu: Real Madrid 2002
La Liga - Primera División champions: Real Madrid 2002/2003
Siêu Cup TBN: FC Barcelona 1996, Real Madrid 2003​

Nguồn: Tổng hợp
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
Bernd Schuster; Siêu sao ở xứ lạ

Bernd Schuster là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của bóng đá Đức nói riêng và bóng đá thế giới nói chung ở thập niên 80, là người được người Đức “phong thánh” . Nhưng cũng chính họ lại ruồng bỏ anh mà như họ nói do “tính đồng bóng” của Bernd . Schuster đã phảI rời đội tuyển quốc gia, rờI quê hương gia nhập độI quân viễn chinh trên sân cỏ TBN suốt 13 năm trờI. Ở đó anh toả sáng người TBN gọi anh với cái tên trìu mến là “Thiên thần tóc vàng”

Tên thật: Bernhard Schuster
Ngày sinh: 22 tháng 10 năm 1959.
Nơi sinh: Augsburg, Tây Đức
Vị trí: Tiền vệ
Mùa giải: câu lạc bộ số lần khoác áo/bàn thắng
1978–1980: 1. FC Köln 61/10
1980–1988: FC Barcelona 170 /63
1988–1990: Real Madrid 62/13
1990–1993: Atlético Madrid 85/11
1993–1996: Bayer Leverkusen 59/8
1996–1997: UNAM Pumas 9/0

Schuster tên đầy đủ là Bernd Schuster sinh 22 tháng 10 năm 1959 tại Augsburg - Tây Đức.Schuster làm quen với trái bóng lúc lên 4 tuổi khi được người cô tặng cho cậu một quả bóng. Cậu bé tỏ ra rất thích thú với món quà này, cậu thường chơi ở đường phố với các bạn bè cùng trang lứa. Dù không thích thú với chuyện học hành nhưng sức học của cậu là không đến nỗi nào, đơn giản là niềm đam mê lớn nhất của cậu là trái bóng tròn.

Khởi đầu sự nghiệp

CLB đầu tiên trong sự nghiệp của chàng trai người Đức là tại đội trẻ của Fc Augburgs và chỉ sau 2 mùa giải tại đây cái tên Bernd Schuster đã trở thành tâm điểm của giải vô địch trẻ bang Baravia và được rất nhiều đội bóng tại Bundes Liga để mắt tới.

Cuối cùng thì Fc Koeln đương kim vô địch Bundes Liga lúc bấy giờ đã sở hữu được chàng tiền vệ trẻ tài năng của bóng đá Đức, sau cuộc tranh chấp với Bayern Munich ( đội bóng thần tượng của Bernd ).

Bộ đôi huấn luyện viên Loehr và Weisweiller của Fc Koeln lúc đó rất nóng lòng chờ đợi sự có mặt của Bernd để bổ sung chất lượng cho đội bóng. Và quả thực họ đã không phải thất vọng bởi sự có mặt của Bernd đã giúp Koeln đoạt đĩa bạc Bundesliga và Cúp Quốc gia Đức. Chàng trai trẻ Schuster tiếp tục là cầu thủ chủ chốt của đội bóng, anh đã trở thành một siêu sao của đội bóng!!! Chỉ một năm rời khỏi FC Augsburg, Bernd đã bước lên một tầm cao mới.
Mùa giải 1978/79 không thành công như mong đợi của Schuster khi FC Koeln thất bại cả ở Bundesliga lẫn Cúp Quốc Gia Đức. Người thầy yêu quý Weisweiller phải ra đi để nhường chỗ cho Heddergott – một lựa chọn sai lầm cho đội bóng lẫn cá nhân Bernd. Heddergott đày Bernd lên băng ghế dự bị dù các fans phản đối kịch liệt, thậm chí nhiều người đã bật khóc yêu cầu Heddergott từ chức.
FC Koeln kết thúc mùa giải trong sự thất vọng của các fans, còn Schuster bị Heddergott đẩy xuống tập cùng đội trẻ.

Bernd tìm cách liên lạc với người thầy cũ Hennes Weisweiller, lúc này đã rời khỏi nước Đức, để đến Cosmos NY với ông ta. . Các fans giận dữ với huấn luyện viên Heddergott vì lo sợ mất anh. Nhưng chủ tịch FC Koeln là một gã cáo già, ông ta đã không bán ngay Bernd mùa hè đó vì muốn “làm giá” Schuster. Khát khao sở hữu tiền vệ tài hoa còn rất trẻ này, gã khổng lồ xứ Catalan đã đặt giá cao nhất.
Ở lại FC Koeln là không thể nên ưu tiên hàng đầu của Bernd là sang Mỹ với Weisweiller, nhưng đã không có câu lạc bộ nào đưa ra đề nghị dứt khoát. Cuối cùng thì Chủ tịch Weiand cũng có được cái mà ông ta muốn: Barca trả 40 triệu pesetta cho ngôi sao trẻ này. Tháng 10 năm 1980, Bernd lên đường đến Tây Ban Nha.


Thiên thần ở Nou Camp

Mùa giải 1980/81 Barcelona thi đấu rất bết bát ở giải quốc nội, để thua quá nhiều trận và nội bộ lục đục. Huấn luyện viên Kubala cũng không thể cứu nổi đội bóng, tuy nhiên nhiều người tin rằng sự có mặt của Schuster sẽ là mấu chốt để giải quyết mọi vấn đề. Tháng 10 năm 1980, Schuster về với Barca. Ngôi sao người Áo Krankl rời đội bóng với sự tức giận: “Barca sẽ chẳng làm được gì, kể cả họ có mua được Pele!”. Tiếp đó là thay đổi trên băng ghế chỉ đạo khi Kubala một người không ưa Schuster ra đi, nhường chỗ cho Helenio Herrera. Sự có mặt của Pele sẽ là không cần thiết bởi Barca đã thi đấu tốt hơn với ngôi sao Schuster.
Nửa xấu xa trong con người của Bernd trỗi dậy. Đầu tiên là những bức ảnh của người vợ Gabi bị đưa lên mặt báo, tiếp đó là rắc rối với đồng đội Migueli. Những bàn thắng liên tục đến tỉ lệ với những chiếc thẻ vàng và các Culé luôn mong đợi một Schuster xuất-sắc-mỗi-tuần, vì họ cho rằng đây chính là ngôi sao mơ ước của họ kể từ sau thời kỳ của Cruff. Những áp lực đè nặng lên đôi vai Schuster và đỉnh điểm là vụ tiền đạo Quini – một trong những người bạn thân thiết nhất của ông – bị bắt cóc. Đó là cú sốc lớn cho cả đội bóng. Trong suốt một tháng đó, Barca thua liểng xiểng và cũng mất luôn cơ hội cạnh tranh chức vô địch Liga. Khi Quini được thả tự do thì mùa giải cũng sắp khép lại nhưng Barca cũng được an ủi bởi chiếc Cúp Nhà Vua mà họ giành được sau chiến thắng 3:1 trước Sporting Gíjon, trận đấu mà Schuster là người chơi hay nhất còn Quini ghi 2 bàn. Chàng trai trẻ mới tròn 20 tuổi đã trở thành đầu tàu của Barca và đưa đội bóng ra khỏi cơn khủng hoảng, đồng thời tạo nên một hiện tượng mới: Schustermania.

Mùa giải 1981/82, sự xáo trộn trên băng ghế chỉ đạo lại tiếp tục và nạn nhân lần này Herrera. Huấn luyện viên người Đức Lattek được chỉ định thay thế, nhưng những phương pháp huấn luyện của ông tỏ ra không phù hợp và kết quả là Barca lại tiếp tục thi đấu bết bát. Schuster cảm thấy không hài lòng và một số rắc rối khác đã đưa đội bóng xứ Catalan đến bên bờ một cuộc khủng hoảng mới. Lattek được nhìn nhận là huấn luyện viên hay nhất nước Đức thời ấy nhưng đã không thể vượt qua sức ép ở Barca. Mọi chuyện chỉ tạm yên ổn khi Schuster thi đấu với phong độ cao nhất. Nhưng điều tồi tệ nhất đã xảy ra khi ông bị Goikoetxea đốn gãy chân trong một trận đấu với Bilbao tháng 12 năm 1981. “Suốt trận đấu hắn ta đã đe dọa đốn gãy chân tôi và cuối cùng thì hắn cũng đã thực hiện được điều đó” – Schuster tuyên bố trong giận dữ sau khi trận đấu kết thúc.
Nôn nóng để sớm bình phục chấn thương Bernd đã quay về Đức rồi sang Tây Ban Nha, tìm những bác sỹ giỏi nhất để điều trị nhưng phép màu đã không xảy ra và kết quả là “Số 8” lỡ cơ hội tham dự World Cup 1982. Tháng cuối cùng mùa giải đó Barca đã phải đứng ngoài cuộc đua giành ngôi vô địch, tuy nhiên Barca cũng được an ủi đôi chút với chiếc Cup C2 và đó là dấu ấn quan trọng nhất của huấn luyện viên Lattek.

Mùa giải 1982/83 là một mùa giải đáng nhớ với các Culé bởi sự có mặt của Diego Maradona cầu thủ hay nhất thế giới lúc đó. Rắc rối đã xảy ra khi Maradona bị viêm gan và chàng trai vàng của bóng đá thế giới đã vắng mặt 2 tháng vì căn bệnh này, nhưng trước đó những bữa tiệc tùng thâu đêm suốt sáng còn nổi tiếng hơn là cái chân trái kỳ diệu của anh. Còn Bernd thì bị ảnh hưởng bởi chấn thương trước đó nên anh đã không thể tỏa sáng. Barca mất phương hướng còn “Số 8” thì mất niềm tin (và cả sự tôn trọng) ở người thầy: “Lattek là một gã nát rượu”. Sau đó Lattek bị sa thải và Menotti lên thay thế, Barca đoạt Cúp Nhà Vua nhưng chức vô địch Liga thì bị Athletic Bilbao đoạt mất.
Mùa giải 1983/84 rất được các Culé chờ đợi bởi Menotti đang được yêu mến nhờ triết lý tấn công đẹp mắt và hy vọng ông sẽ giúp Maradona sớm lấy lại phong độ. Thế nhưng ước mơ vẫn chỉ là mơ ước. Goikoetxea có lẽ là cái tên bị các Culé nguyền rủa nhất bởi chính anh đã tiếp tục thẳng tay “loại bỏ” cái chân trái của Maradona trong một trận đấu cũng với Bilbao. Thêm 4 tháng “số 10” phải ngồi ngoài để điều trị chấn thương. Bilbao thì bảo vệ thành công ngôi vô địch Liga đồng thời đoạt luôn Cúp Nhà Vua khi đánh bại chính… Barca trong một trận chung kết nổi tiếng bạo lực. Một cuộc chiến thật sự đã diễn ra bên ngoài sân cỏ sau đó với các pha “karate” của Migueli và Maradona. Kết quả là Menotti rời khỏi đội bóng và kéo theo đó là Maradona khi anh quyết định về với Napoli, nơi anh tìm lại phong độ đỉnh cao của mình.

Mùa giải 1984/85 cũng không khá hơn. Các Culé thì mất niềm tin sau sự ra đi của Maradona, nhưng Schuster thì không: “Không cần Diego, tôi sẽ thực hiện các quả penalty và làm chủ tuyến giữa. Barca sẽ có chức vô địch Liga”. Dưới thời Venables, Bernd đeo băng đội trưởng đồng thời được chơi tự do và sáng tạo hơn. Chức vô địch đã về với Camp Nou sau nhiều năm, còn Schuster thì giành Quả Bóng Đồng Châu Âu và là cầu thủ hay nhất Tây Ban Nha thời điểm đó.

Mùa giải 1985/86, Barca hướng tới chức vô địch Liga tiếp theo và cả Cúp Vô địch Châu Âu nữa. Tuy vậy, rắc rối vẫn không buông tha Bernd khi “số 8” mâu thuẫn với Venables và cả Chủ tịch Nuñez. “Đây không phải là Châu Phi”, Schuster đã hét lên khi thấy Nuñez cò kè tiền thưởng với các cầu thủ. Giải quốc nội thì không còn hy vọng nhưng Barca đã lọt vào trận chung kết Cúp C1 Châu Âu với Steaua Bucuresti sau khi đánh bại Juventus. Đương nhiên tất cả mọi người đều đặt cửa cho đội bóng xứ Catalan, nhưng trên sân cỏ thì Barca đã không thể chiến thắng Steaua Bucuresti ở Seville. Venables quyết định sẽ rút Schuster ra nghỉ sau 73 phút và thay thế “số 8” là Moratalla. Bernd hết sức giận dữ và cho rằng Venables muốn giành chiếc Cúp này mà không cần đến mình. Bernd rời khỏi sân vận động và về nhà với gia đình, chứng kiến qua TV Barca gục ngã trước Steaua ở loạt đá luân lưu (Barca sút hỏng 4 quả). Venables thất bại và cả Bernd nữa. Khách quan mà nói thì thật không logic khi Venables thay thế Bernd bởi anh là mẫu cầu thủ có thể một mình xoay chuyển cục diện trận đấu bằng một pha bóng. Nhưng Schuster sẽ không bao giờ có cơ hội đó, Barca đá hỏng 4 quả penalty và đương nhiên Bernd không thể chối bỏ trách nhiệm. Chủ tịch Nuñez và huấn luyện viên Venables chỉ trích Bernd thậm tệ và một nửa số Culé tin vào điều đó. Họ cho rằng với đẳng cấp của mình mỗi khi ra sân Schuster phải chơi hay nhất, tốt nhất. Thậm chí Chủ tịch Nuñez còn mạnh mồm tuyên bố: “Bernd sẽ không bao giờ có cơ hội khoác lên mình chiếc áo của Barca nữa” sau khi biết Schuster đã rời khỏi sân vận động. Đó là một cú sốc thật sự với tất cả những người yêu bóng đá.

Mùa giải 1986/87 là một mùa giải đáng quên với Bernd. Hughes và Lineker được mua về để thay thế cho Archibald và chính Bernd. Chủ tịch Nuñez giữ đúng “lời hứa” và Bernd đã không được ra sân một lần nào suốt mùa giải. “Bà đầm già thành Turin” Juventus rất quan tâm đến ngôi sao 26 tuổi này và muốn “giải thoát” cho Bernd, nhưng Barca không chịu bán. Không khí u ám bao trùm Nou Camp. Không Cúp, không danh hiệu và một nửa số fans mong “số 8” trở lại. Bernd thì buồn bã và chán nản bởi anh muốn ra đi khỏi “địa ngục Catalan” càng sớm càng tốt. Cảm xúc bị dồn nén và “số 8” quyết định sẽ thực hiện nốt năm cuối cùng trong hợp đồng với đội chủ sân Camp Nou.

Mùa giải 1987/1988 là mùa giải cuối cùng Bernd mặc chiếc áo của Barca. Luis Aragones – một người rất hâm mộ lối chơi của Bernd – lên nắm quyền thay Venables và tìm cách khôi phục lại sự hứng khởi trong Bernd. Dù rằng Bernd đã rất nỗ lực nhưng những gì “số 8” có thể làm được cho Barca chỉ là một chiếc cúp Nhà Vua sau thất bại ở Liga và ở Cúp UEFA (thua Leverkusen). Cuối mùa giải Schuster quyết định sẽ về đầu quân cho Real Madrid – kình địch của Barca – và quên đi “địa ngục Camp Nou” để bắt đầu một chương mới trong sự nghiệp.

Đội tuyển Quốc gia: Tài năng bị lãng quên

Năm 1979 - một năm trước khi Euro diễn ra – tuyển Đức đang trong thời kỳ khủng hoảng khi những ngôi sao lớn tuổi đã không mang lại nhiều hy vọng cho người hâm mộ. Một thế hệ cầu thủ trẻ đã được trình làng ở World Cup 1974 đang sẵn sàng gánh vác trọng trách quốc gia. Cựu ngôi sao Vogts và chuyên gia tìm kiếm tài năng Derwall tiến cử Schuster cho đội tuyển quốc gia. Lúc này Bernd đã 20 tuổi và được trợ lý Loehr miêu tả có “phong thái gợi nhớ Beckenbauer ở vị trí libero”. Cuối cùng Schuster, Mathaeus, immel và Junghans được đôn lên đội hình A. Trận đấu đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia Đức là vào tháng 5 năm 1979 ở Dublin.

Bernd.jpg

Thế hệ tài năng mới của Đức rất được chờ đợi ở giải Vô địch Châu Âu 1980 diễn ra tại Ý. Bernd là một trong những cầu thủ trẻ được huấn luyện viên Derwall lựa chọn để thế chỗ Bonhof bị chấn thương. Bernd được đưa vào sân từ băng ghế dự bị sau khi Derwall nhận thấy Cullmann chơi không tốt trong trận đấu với Hà Lan. Đức đã hạ gục Hà Lan với tỉ số 3-2 trong đó Schuster kiến tạo cả 3 bàn!!! Đó mới chỉ là điểm khởi đầu, bởi lúc này cả Châu Âu đã biết đến anh. Trận đấu tiếp theo với Hy Lạp, Bernd không được ra sân và thế là Đức hòa 0-0 đầy bế tắc. Trận chung kết với Bỉ, Schuster đã trở lại và ngay lập tức Đức giành chiến thắng với tỉ số 2-1. Đức lên ngôi vô địch với ngôi sao Rummenigge và những bàn thắng của Hrubesch, nhưng Schuster mới là cầu thủ xuất sắc nhất kỳ Euro đó. Tinh tế, mạnh mẽ, nguy hiểm, chín chắn, trẻ trung, tài năng… không biết còn bao nhiêu mỹ từ mà các phóng viên đã dùng để ngợi ca anh sau một kỳ Euro tuyệt vời.

Euro năm đó cũng là lần duy nhất Bernd thi đấu cho đội tuyển Quốc gia tại một giải đấu lớn.Cá tính đặc biệt; những mâu thuẫn với đồng đội cũng như HLV đã khiến anh bỏ lỡ những giải đấu lớn sau này cùng với đội tuyển.

Sự nghiệp của Schuster ở đội tuyển Quốc gia có thể viết thành một cuốn tiểu thuyết ly kỳ. Với nhiều người thì Bernd là cầu thủ xuất sắc nhất của Đức sau thời kỳ Beckenbauer, còn với chính “Hoàng đế” Franz thì Bernd “chỉ đơn giản là một đứa trẻ đồng bóng” mà ông không ưa!

Lần cuốI cùng Schuster thi đấu cho đất nước , khi đó là Tây Đức , là trận thắng Bỉ 1-0 tạI Brussels ngày 29-2-1984 . Trận giã từ này diễn ra vào cái ngày 4 năm mớI có 1 lần (năm nhuận) đã biểu trưng cho sự nghiệp bóng đá không thuận lý của Schuster.


Các danh hiệu:

1980 European Cup , Italy1980 FR Germany
European Silver Baloon

1981 King of Spain Cup FC Barcelona
European Bronze Baloon

1982 European Cup of Cup winners FC Barcelona

1983 King of Spain Cup FC Barcelona
Cup of the League FC Barcelona

1984 Supercup of Spain FC Barcelona

1985 Spanish League FC Barcelona
European Bronze Baloon

1986 Cup of the League FC Barcelona

1988 King of Spain Cup FC Barcelona

1989 King of Spain Cup Real Madrid
Spanish League Real Madrid

1990 Spanish League Real Madrid

1991 King of Spain Cup Atletico Madrid

1992 King of Spain Cup Atletico Madrid

1994 Hallen-Masters Bundesliga Bayer Leverkusen​

Nguồn: Tổng hợp
 
Sửa lần cuối:

baz21

Barça B
Đầu quân
28/11/07
Bài viết
656
Được thích
1
Điểm
18
Nơi ở
HN
Barça đồng
0
VICENÇ PIERA

pieraretratbo.jpg

Mùa giải thi đấu cho Barca: 1920 – 1933
Số trận thi đấu: 395
Bàn thắng: 135
Các danh hiệu:
- 1 chức vô địch La Liga (1928/1929)
- 4 chức vô địch TBN (1921/22) 24/25, 25/26, và 27/28)
- 10 chức vô địch Catalan (1920/21, 21/22, 23/24, 24/25, 25/26, 26/27, 27/28, 29/30, 30/31, và 31/32)

piera_mov.jpg

Được biết đến với biệt danh "Phù thủy", Piera (1903-1960) sinh ra và lớn lên ở khu vực Santos của thành phố Barcelona. Ông được xem là một trong những tiền đạo cánh phải hay nhất trong lịch sử bóng đá Tây Ban Nha.

Piera là một cầu thủ sở hữu những kỹ năng đặc biệt khiến ông trở nên nổi bật như kỹ thuật cá nhân, tốc độ, khả năng chơi đầu, phong cách lịch lãm cũng như luôn biết có mặt đúng lúc để ghi bàn.
Ông là một trong những trụ cột của đội hình huyền thoại Barca vào những năm 20 của thế kỷ 20. Piera có trận đấu đầu tiên cho Barca vào tháng 1/1921. Ngay trong buổi sáng hôm đó, sau một trận đấu với đội trẻ Barca, Piera với tài năng của mình đã thuyết phục được Hans Gamper điền tên ông vào danh sách thi đấu của Barca trong buổi chiều. Vào sân thay Alcántara bị chấn thương trong trận đấu gặp Arenas de Getxo, ông đã ghi 2 bàn thắng quyết định mang về chiến thắng 3-1 cho Barca. Kể từ ngày đó, Piera đã chơi tất cả các trận đấu cho Barca đến tận ngày giã từ sự nghiệp.
 
Sửa lần cuối:

baz21

Barça B
Đầu quân
28/11/07
Bài viết
656
Được thích
1
Điểm
18
Nơi ở
HN
Barça đồng
0
FERENC PLATKO
FRANZ_PLATKO1.jpg

Mùa giải thi đấu cho Barca: 1923-30
Số trận thi đấu: 189
Các danh hiệu:
- 1 chức vô địch La Liga (1928/1929)
- 2 chức vô địch TBN (1924/25 and 25/26)
- 6 chức vô địch Catalan (1923/24, 24/25, 25/26, 26/27, 27/28, 29/30)


PLATKO_-_2.jpg
Platko (Budapest, Hungary, 1898 – Santiago, Chile, 1983) được mua về vào năm 1923 để thay thế một thủ môn huyền thoại khác của Barca, Ricardo Zamora.

Và Platko đã tỏa sáng rực rỡ bởi tài năng phi thường của ông trong khung gỗ, những pha băng ra ngoài vòng cấm cứu thua nổi tiếng và ông luôn tạo được sự an tâm tuyệt đối cho các đồng đội mỗi khi có mặt trên sân. Ông là một trong những cầu thủ quan trong nhất của Barca trong Kỷ Nguyên Vàng của CLB trong thập niên 20 của thế kỷ 20.
Năm 1928, nhà thơ xứ Cadiz Rafael Alberti đã mô tả một Platko bất diệt trong bài thơ đầy cảm xúc viết về tinh thần anh hùng của ông trong trận chung kết tranh chức vô địch TBN. Trong trận đấu đó, dù bị thương nặng ở đầu nhưng Platko vẫn thi đấu hết mình cho đến hết trận. Alberti đã mô tả Platko như "Mãnh hổ trên sân cỏ" hay "Anh hùng trong sắc áo đỏ xanh"...

Sau này Platko trở thành giám đốc phụ trách Bóng đá của Barca trong hai mùa giải 1934/35 và 1955/56.
 

baz21

Barça B
Đầu quân
28/11/07
Bài viết
656
Được thích
1
Điểm
18
Nơi ở
HN
Barça đồng
0
MARTÍ VENTOLRÀ
MARTx_VENTOLRx1.jpg

Mùa giải thi đấu cho Barca: 1933 – 1937
Số trận thi đấu: 125
Bàn thắng: 73
Các danh hiệu: 2 chức vô địch Catalan 1934 - 1935 và 1935 - 1936​

Được xem như là một trong những cầu thủ chạy cánh hay nhất trong lịch sử của Barcelona, Ventolrà (Barcelona, 1906 – Mexico City, 1977) chính là một trong những ngôi sao sáng nhất trong đội hình Barca vào thập niên 30 của thế kỷ 20.

Ông là một cầu thủ có tài năng đặc biệt, và ông cũng trở nên đặc biệt với các cổ động viên của Barca khi luôn ra sân với một chiếc khăn quấn quanh đầu. Là một cầu thủ luôn bùng nổ, Ventolrà có khả năng cầm bóng đột phá, rê dắt bóng với tốc độ cao. Ông cũng mạnh trong nhưng pha không chiến và thường xuyên ghi bàn cho Barca.

Ventolrà đã từng khoác áo đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha 2 lần. Sự nghiệp của ông tại Barca cũng kết thúc rất khác thường, khi cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha nổ ra (6 - 8/1937), Ventolrà cùng Barca sang Mexico du đấu. Tại Mexico ông đã quyết định ở lại và ký hợp đồng mới với Atlanta. Tuy nhiên lý do chính mà Ventolrà ở lại Mexico không phải vì chiến tranh là vì tại đây ông đã có một chuyện tình đẹp. Trong thời gian Barca du đấu Ventolrà đã gặp gỡ với cháu gái của chủ tịch Đảng Cộng Hoà Lázaro Cárdenas, chuyện tình của họ đã có kết cục tốt đẹp khi 2 người đính ước với nhau. Về sau này, con trai của Ventolrà, Jose cũng theo nghiệp cha và là một trong những hậu vệ xuất sắc và đã chơi cho đội tuyển Mexico tại World Cup 1970.
 

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
Estanislao Basora
basore.jpg

Họ và tên: Estanislao Basora Brunet
Ngày sinh: Ngày 18 tháng 11 năm 1926
Nơi sinh: Colonia Valls, Tây Ban Nha
Vị trí: Tiền đạo cánh



Estanislao Basora Sinh ngày 18 tháng 11 năm 1926 tại Torroella. Được coi là một trong những tiền vệ cánh hay nhất mọi thời đại của Barca và tuyển TBN

Ông bắt đầu chơi bóng đá tại Cologne Vall, và sau đó chuyển đến Súria và Manresa vào năm 1946 trước khi tới Barcelona.
Cùng với César, Kubala, Moreno và Manchon ông là một trong 5 thành viên quan trọng nhất của Barca lúc bấy giờ. Sở trường là những pha đi bóng đầy tốc độ xé toang h àng phòng ngự của đối phương cùng với đó là những cú sút đầy uy lực đã tạo nên thương hiệu của Basora một trong những cầu thủ chạy cánh hay nhất của bóng đá TG vào thời điểm bấy giờ.
el-barca-de-las-cinco-copas.jpg

Chiếc cup Liga đầu tiên mà ông có được là vào mùa giải năm 1948
Năm 1949 ông là người ghi bàn trong trận tranh cup Latin với Sporting Lisbon trận đấu mà Barca đã giành chiến thắng với tỉ số 2 -1
Basora_mide_defensor_Atletico.jpg
Trong mưòi hai năm thi đấu tại Barca ông ra sân trong 373 trận và ghi được 153 bàn thắng.


Sự nghiệp quốc tế:

Trận đấu đầu tiên của ông tại đội tuyển là vào ngày 12 tháng 9 năm 1946 tại Dublin trong trận thắng 4 – 1 trước chủ nhà Ailen ( Basora là người ghi bàn thắng thứ ba) tiếp đó một tuần; ngày 19 – 9 – 1946 ông tiếp tục toả sáng trong trận đấu với Pháp khi l ập một hattrick trong chiến thắng 5 – 1 của TBN trước đội chủ nhà tại Paris, sau tr ận đ ấu đó báo chí Pháp đặt cho ông biệt danh là The Monster of Colombes.
Giải đấu lớn nhất cấp quốc gia mà Basora từng tham d ự là VCK Wourld cup 1950 được tổ chức tại Brazil. Zara ( chân sút số 1 mọi thời đại của La Liga)là người được kì vọng nhất nhưng rốt cục Basora mới là tâm điểm của TBN lúc bấy giờ. Tại đây Basora lại một lần nữa toả sáng rực rỡ khi ghi đ ến 5 bàn thắng nhưng rốt cục TBN cũng phải ra về ở vị trí thứ tư. ( sau Urugoay, Brazil v à THuỵ Đi ển.)
Trận đấu cuối cùng của Basora trong màu áo TBN là vào năm 1957 tại Madrid trước Scotland (TBN thắng 4–1).

Sự nghiệp:
.
Năm Đội trận (Số bàn thắng)
1943-1946 Manresa

1946-1958 Barcelona: 237 (89)
1955-1956 → Lleida (cho mượn): 15 (4)

Đội tuyển quốc gia

1949: Tây Ban Nha B: 1 (0)
1949-1957: Tây Ban Nha: 22 (13)
1948-1958: Catalan XI: 6 (4)

Danh hiệu

Inter-Cities Fairs Cup: 1955-1958
Tây Ban Nha League: 1947-1948, 1948-1949, 1951-1952, 1952-1953
Cúp bóng đá Tây Ban Nha: 1950-1951, 1951-1952, 1952-1953, 1956-1957
Latin Cup: 1949, 1952
Copa Eva Duarte: 1948, 1952, 1953
Copa Martini Rossi: 1952, 1953​
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
César Rodríguez Álvarez
foto_393613_CAS.jpg

Họ và tên:César Rodríguez Álvarez
Ngày sinh:Ngày 29 tháng 6 năm 1920
Nơi sinh: León, Tây Ban Nha
Ngày mất: 01 Tháng Ba 1995 (74 tuổi)
Nơi mất" Barcelona, Tây Ban Nha
Vị trí: Tiến vệ công

César Rodríguez Álvarez ( sinh 29 Tháng Sáu năm 1920, mất ngày 01 Tháng 3 năm 1995, Barcelona) là một cựu cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Tây Ban Nha.
Trong sự nghiệp của mình tại FC Barcelona, ông chơi 351 trận và ghi 235 bàn, Ông chính là ngươì ghi bàn nhiều nhất trong lịch sử của câu lạc bộ tại La Liga. Trong lịch sử La Liga, Chỉ có ba người đứng trên ông là;, Zarra, Hugo Sánchez và Alfredo Di Stéfano. Tại đây ông đoạt được năm chức vô địch La Liga và là chủ nhân của danh hiêu Pichichi vào năm 1949, ông giành được danh hiệu trên với 28 bàn thắng. Sau khi giã từ sự nghiệp sân cỏ César trở thành một HLV.

Sự nghiệp

Ông gia nhập Barca vào năm 1939. Tuy nhiên sau đó ông lại bị ban lãnh đạo của Barca đem cho Grenada mượn. Ông đã trải qua hai mùa bóng tại Granada CF và vào năm 1941 đã giúp họ giành chiến thắng trong Segunda División. Mùa sau, 1941-1942, cả César và Granada CF lên chơi tại Primera División..
Năm 1942 César trở lại cho FC Barcelona và có được danh hiệu La Liga đầu tiên vào năm1945.
n_f_c_barcelona_cesar_rodriguez-703231.jpg

Năm 1951 ông đã ghi hai bàn trong chiến thắng 3-0 trước Real Sociedad trong trận CK Copa del Generalísimo. Thời kì đó ông cùng với Estanislao Basora, Ladislao Kubala, Eduardo Manchón và Moreno hình thành bộ ngũ nổi tiếng của Barca, tiếp đó ông đóng một vai trò rất quan trọng trong chức vô địch của Barca tại mùa giải 1951-1952.
liga1953.jpg

Ông là người ghi bàn trong trận chung kết Copa, trận đấu mà Barca đã vượt qua Valencia CF với tỉ số 4-2. Ông cũng là người ghi bàn thắng trong trận Copa Latina giúp Barca giành thắng lợi trước OGC Nice với tỉ số 1-0.

Sự nghiệp quốc tế

Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1952 César từng có 12 lần khoác áo cho đội tuyển Tây Ban Nha. Trận đấu đầu tiên của ông tại đội tuyển là trận hòa 2-2 với Bồ Đào Nha vào ngày 11 tháng 3 năm 1945, ông cũng là thành viên của đội tuyển TBN tham dự Cúp bóng đá thế giới 1950. Trong khoảng thời gian từ 1943 đến 1954, ông cũng chơi 10 trận cho tuyển Catalan.

Danh hiệu

FC Barcelona
Pichichi Trophy: 1949
Tây Ban Nha vô địch: 5
1945, 1948, 1949, 1952, 1953
Copa del Generalísimo: 1951, 1952
Copa Latina: 1949, 1952
Copa de Oro Argentina / Copa Eva Duarte: 1945, 1948, 1952, 1953

Granada CF
Segunda División: 1941

Elche CF
Segunda División, 1959
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,036
Được thích
58
Điểm
48
Barça đồng
197
Gonzalo III
GONZALVOIIIretrat.jpg


Họ và tên: Mariano Gonzalo Falcon
Ngày sinh: 22 tháng 3 năm 1922
Nơi sinh: Mollet del Valles – Catalonia – TBN
Ngày mất: 7 tháng 4 năm 2007
Vị trí: Tiền vệ trung tâm

Mariano Gonzalvo Falcon (Sinh ngày 22 Tháng 3 năm 1922, tại Mollet del Vallès, mất ngày 07 tháng 4 năm 2007 tại Catalonia - TBN), hay còn được gọi là Gonzalvo III( để phân biệt với hai anh em khác của ông cũng từng chơi cho Barcelona)

Sự nghiệp:

Gonzalo bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình tại CLB điạ phương Mollet truớc khi gia nhập CE Châu Au, năm 1940 ông kí hợp đồng với Barca nhưng bước đầu không tìm được chỗ đứng trong CLB ông bị Barca đẩy sang Zaragoza với một bản hợp đồng cho mượn, tại đây cùng với người anh trai của mình ông đã giúp cho Zaragoza trở lại với hạng đấu cao nhất của TBN sau khi kết thúc muà giải ở vị trí thứ 2 chính phong độ ấn tượng đó đã khiến cho ông có cơ hôị được trở lại Barcelona.

Ngày 13 tháng 12 năm 1942 Gonzalo III ra sân trong trận đấu Barca gặp Sevilla (Barca thất bại với tỉ số 2 – 4 ) Trong mười ba mùa bóng thi đấu cho đội bóng chủ sân Nou Camd ông luôn là một thành viên quan trọng không thể thiếu của đội bóng. Ông chơi 331 trận và ghi được 56 bàn thắng.
golzalvoIII_mov.jpg

Cùng với một đội ngũ bao gồm Antoni Ramallets, Velasco, Josep Escola, Joan Segarra, Estanislao Basora, César, Ladislao Kubala và anh trai của ông là : Jose ông đã giúp cho CLB đoạt được 5 chức vô địch Liga và 3 Copa del Generalísimo

Sự nghiệp quốc tế

Gonzalo thi đáu cho đội tuyển TBN 16 lần trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1954. Trận đấu mở màn của ông là trước Ai len ( TBN thua với tỉ số 0-1)

Ông cũng là thành viên của đội tuyển TBN tại WC 1950 giải đấu mà TBN đứng hạng 4, ông cũng đã từng 3 lần khoác áo đội tuyển Catalan.
Các câu lạc b ộ

Năm - Câu lạc bộ - Trận (số bàn thắng)*
19xx-xx: CE Châu Âu
1940-1941: FC Barcelona
1941-1942: Real Zaragoza
1942-1955: CF Barcelona 208 (26)
1955-1956:UE Lleida 13 (2)
1956-1957:CD Condal 16 (1)

Đội tuyển quốc gia

1947-1955: Catalan XI: 3 (0)
1946-1954: Tây Ban Nha: 16 (1)

Danh hiệu

Vô địch Tây Ban Nha : 1945, 1948, 1949, 1952, 1953
Copa del Generalísimo: 1951, 1952, 1953
Copa Latina: 1949
Copa de Oro Argentina / Copa Eva Duarte: 1945, 1949, 1952, 1953
Copa Martini Rossi: 1952, 1953
 
Sửa lần cuối:

Xã viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Chủ đề mới nhất

Giới thiệu

  • Barçamania Việt Nam thành lập từ năm 2005. Chúng tôi không thiên vị trong các thảo luận, đảm bảo thông tin chính xác không giả mạo. Chúng tôi cam kết xây dựng diễn đàn lành mạnh và phi lợi nhuận.
Top