[Tư liệu] - Các Huấn luyện viên trong lịch sử FC Barcelona

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Luis Aragonés (1987-1988)

luisaragones.jpg

Được mọi người trong làng bóng đá gọi với cái tên "el Sabio de Hortaleza" (the wise man from Hortaleza - nhà thông thái đến từ Hortaleza), Luis Aragonés đã từng dẫn dắt nhiều CLB khác nhau khắp Tây Ban Nha.
Aragonés tên đầy đủ là José Luis Aragonés Suárez, sinh ngày 28/7/1938 tại Hortaleza, Madrid, thường được gọi đơn giản là Luis. Phần lớn sự nghiệp chơi bóng và huấn luyện của ông gắn liền với Atlético Madrid. Cùng CLB này, Luis đã trở nên nổi tiếng khi còn là cầu thủ, và trên cương vị HLV, ông cũng đoạt được những thành tích xuất sắc: 4 danh hiệu La Liga, 1 lần lọt vào chung kết European Cup, và 1 chiếc Intercontinental Cup (Cúp liên lục địa). Luis cũng đã dẫn dắt ĐTQG Tây Ban Nha vô địch European Championship lần thứ 2 trong lịch sử vào năm 2008. Hiện tại ông đang là HLV trưởng CLB Fenerbahçe tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Aragones đến với Barca để thay thế cho Terry Venables. Mùa giải duy nhất ở sân Nou Camp, Aragones đã gặp phải một sự kiện hiếm có nhất CLB đã từng trải qua: Các cầu thủ tập hợp lại đề nghị vị Chủ tịch đương nhiệm, Josep Lluís Núñez, ra đi. Sự kiện này được người ta gọi là "Motín de Hesperia" (Hesperia Mutiny - Cuộc nổi dậy Hesperia). Lúc đó, Luis Aragonés đã đứng về phía các cầu thủ, dành cho họ sự hỗ trợ vô điều kiện. Mặc dù mùa giải biến động như vậy, nhưng ông vẫn mang về cho CLB một chiếc cúp Copa del Rey. Nhưng cuối cùng Luis vẫn không ở lại CLB trọn vẹn một mùa giải, do bản thân cảm thấy chán nản.
Sau khi rời sân Nou Camp, ông tiếp tục sự nghiệp HLV của mình với nhiều CLB như Betis, Valencia, Espanyol, Mallorca hay CLB cũ Atlético de Madrid.
 
Sửa lần cuối:

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Ramón Guzmán (1941-42)

guzman.jpg

Sự nghiệp cầu thủ của Ramón Guzmán ở Barca không đến nỗi nào, tuy nhiên chiếc ghế HLV trưởng đội bóng xứ Catalan có lẽ ko hợp với ông.
Mới chỉ dẫn dắt CLB đc nửa mùa giải, Ramon bị sa thải do không mang lại một tương lai gì sáng sủa cho CLB, ông được thay thế bằng HLV Josep Nogués. Ramón Guzmán mất vào 1/4/1954, sau một cơn đột quỵ trên sân the Les Corts.
 

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Johan Cruyff (1988-1996)

cruyff_280x390_477668a.jpg

Vào những năm 60 của thế kỷ trước, người ta biết đến Johan Cruyff của Barca như là cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu. Và đến cuối thập niên 80, một lần nữa mọi người lại nhắc đến Cruyff của Barca, nhưng lần này ông xuất hiện với một cương vị hoàn toàn khác: Huấn luyện trưởng đội bóng xứ Catalan.
Hendrik Johannes Cruijff sinh ngày 25 tháng 4 năm 1947 tại Amsterdam, thường được gọi bằng cái tên Johan Cruyff. Thời còn chơi bóng, ông đã 3 lần giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu vào các năm 1971, 1973 và 1974. Trong lịch sử bóng đá hiện đại, ngoài Johan Cruyff chỉ có 2 người làm được điều này, đó là Michel Platini và Marco van Basten. Cruyff cũng là một trong những người đại diện tiêu biểu nhất của lối chơi tổng lực mà ĐTQG quê hương ông luôn tự hào về, và bản thân ông luôn được người ta nhắc đến như là một trong những cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất mọi thời đại. Năm 1999, Cruyff được IFFHS (International Federation of Football History & Statistics – Liên đoàn Lịch sử và Thống kê Bóng đá Thế giới) bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu thế kỷ 20, và đứng thứ 2 trong danh sách Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới, ngay sau Pelé.

cruyff%20barca.jpg

Sau khi từ giã sự nghiệp cầu thủ năm 1984, Johan Cruyff tiếp tục gắn bó với sân cỏ trên một cương vị mới: Huấn luyện viên chuyên nghiệp. Năm 1985, ông bắt đầu sự nghiệp dẫn dắt của mình ở nơi ông khởi nghiệp cầu thủ, CLB Ajax Amsterdam. Tại đây Cruyff đã giành được 1 chiếc Dutch Cup năm 1986, nối tiếp bằng chiếc Cup Winners’ Cup năm 1987. Ông được giới bóng đá Hà Lan ca ngợi vì luôn trung thành với lối chơi tấn công đẹp mắt, và việc phát hiện ra nhiều tài năng bóng đá kiệt xuất của xứ sở hoa Tu-líp như Marco Van Basten và Dennis Bergkamp. Năm 1988, vẫn giống như thời ông từng chơi bóng, Cruyff từ Ajax đến với Barça.

Cruyff010.jpg

Trở lại sân Nou Camp, Cruyff bắt đầu công việc với thành phần đội tuyển hoàn toàn mới, kết quả của vụ nổi loạn vào mùa giải trước đó mà người ta gọi là “Hespereria Mutiny”. Với sự giúp đỡ đắc lực của cộng sự Charly Rexach, Cruyff đã mang về sân Nou Camp những gương mặt xuất sắc của bóng đá đương thời như Josep Guardiola, José Mari Bakero, Txiki Begiristain, Goikoetxea, Ronald Koeman, Michael Laudrup, Romário, Gheorghe Hagi hay Hristo Stoichkov, và vẫn với lối đá tấn công quyến rũ, đội bóng của Johan Cruyff liên tiếp mang về những chiếc cúp danh giá trong và ngoài nước, như 4 danh hiệu vô địch La Liga liên tiếp bắt đầu từ năm 1991, European Cup Winners’ Cup 1989, European Cup 1992, Copa del Rey 1990, European Super Cup 1992 và 3 chiếc Supercopa de España. Không chỉ xây dựng được một đội tuyển mạnh mẽ, Cruyff còn tưới thứ bóng đá quyến rũ ấy lên cả đội trẻ Barça, một chiến lược đào tạo có chiều sâu, khiến cho những tài năng trẻ dễ dàng hoà nhập khi được đưa lên đội 1. Tất cả những thành tựu đó đã khiến Johan Cruyff trở thành huấn luyện viên thành công nhất trong lịch sử đội bóng xứ Catalan, và cũng là huấn luyện viên có quãng thời gian gắn bó cùng CLB dài nhất, đội hình Barça dưới triều đại của ông cũng được gọi là “Dream Team”.

dmjhvc4.jpg

8 năm dẫn dắt đội bóng Blaugrana, Cruyff không phải không gặp những khó khăn trắc trở. Cuối tháng 1 năm 1991, ông đã phải trải qua 1 cơn phẫu thuật tim do di chứng của những tháng năm sử dụng thuốc lá. Sau đó Cruyff đã bỏ thuốc, và còn dẫn đầu một chiến dịch cổ động phòng chống thuốc lá tổ chức bởi Hiệp hội Sức khoẻ Catalan. Lúc đó, ông đã tham gia vào một đoạn phim ngắn nhằm cổ động việc bỏ thuốc lá, trong đó Cruyff đã tung hứng với bao thuốc 16 lần. Cũng từ sau khi bỏ thuốc, Cruyff trở nên tỉnh táo hơn, và Barça đá ngày một hay, để rồi cuối cùng giành chiếc cúp European Cup danh giá tại sân Wembley Stadium vào năm 1992.
Tuy nhiên, 2 mùa giải cuối của ông tại sân Nou Camp diễn ra không được đẹp đẽ cho lắm. Barça không giành được danh hiệu nào, và những mâu thuẫn ngày càng gay gắt của Cruyff với chủ tịch đương thời của CLB, Josep Lluís Núñez, đã dẫn tới việc ông bị buộc phải rời khỏi chiếc ghế vinh quang bấy lâu nay. Sau đó Cruyff cũng đã góp phần ủng hộ Joan Laporta thắng cử chức chủ tịch CLB, và đến giờ vẫn là cố vấn không chính thức của Laporta.
 
Sửa lần cuối:

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Bobby Robson (1996-1997)

robson_bobby1.jpg

"Quý ông người Anh" đến với Barça để đảm đương một nhiệm vụ không hề đơn giản: Thay thế Johan Cruyff.

Robert William "Bobby" Robson CBE sinh ngày 18 tháng 2 năm 1933, qua đời ngày 31 tháng 7 năm 2009 do hậu quả nặng nề của căn bệnh ung thư. Ông sinh ra và lớn lên tại ngôi làng Sacriston, thành phố Durhamm, miền Bắc nước Anh, trong một gia đình có cha là thợ mỏ. Tình yêu bóng đá của Robson được nhen nhóm từ những lần được người cha, Philip Robson, dẫn cậu bé đến sân St James' Park xem Newcastle United thi đấu. Sự nghiệp cầu thủ của Robson cũng kéo dài 20 năm, từ năm 1945, khi ông còn là 1 cậu bé 11 tuổi, đến tận năm 1967, trong màu áo Fullham. Sau đó, thời kỳ hoàng kim trên sân cỏ của Robson mới tới khi ông bắt đầu công việc của một huấn luyện viên chuyên nghiệp.

_40955532_haynes.jpg

Sau những năm tháng dẫn dắt Fullham, Ipswich Town, PSV Eindhoven, Sporting CP, FC Porto và ĐTQG Anh, Bobby Robson cũng đã gây dựng được cho mình chút danh tiếng tại châu Âu. Và vào mùa hè năm 1996, Robson cùng người cộng sự trẻ tuổi, José Mourinho, đến với sân Camp Nou. Ban lãnh đạo, người hâm mộ, báo chí đều hiểu rằng đây sẽ là một bến đỗ cực kỳ khó khăn cho vị huấn luyện viên người Anh, nhưng Bobby Robson đã trả lời tất cả bằng những danh hiệu!

SUPERCOPA_DxESPANYA_1996-LA_PEINETA_x2x.jpg

Mùa giải năm ấy, Barça về nhì ở La Liga, giành chiếc Cup Winners Cup sau trận chung kết với PSG (1-0), đoạt Supercopa de España và hoàn tất cú ăn 3 bằng chiếc Copa del Rey sau chiến thắng 3-2 trước Betis trong một đêm khó quên ngay trên sân Santiago Bernabeu. Những chiến thắng đó của Bobby Robson được góp công lớn bởi người cộng sự José Mourinho ...

sir+bobby+robson+barcelona+mourinho.jpg

... và bản hợp đồng 19.5 triệu USD: "Người ngoài hành tinh" Ronaldo, với 47 bàn thắng sau 49 trận đấu trên mọi mặt trận, một hiệu suất ghi bàn "kinh khủng"

robsonmos0107_468x316.jpg

Cuối mùa giải 1996-1997, Bobby Robson được bầu chọn là "European Manager of the Year - Huấn luyện viên xuất sắc nhất châu Âu của năm". Và tiền đạo "con cưng" của Robson lúc đó, Ronaldo, đã phát biểu: "As a trainer, without doubt, he is one of the greatest in the world!" (Trên cương vị huấn luyện viên, không còn nghi ngờ gì nữa, ông ấy là một trong những người vĩ đại nhất thế giới!)
Bất chấp những danh hiệu Robson mang về cho sân Camp Nou, số phận của ông tại đây đã được định đoạt từ trước khi mùa giải bắt đầu. Louis Van Gaal đã được ấn định là sẽ ngồi vào chiếc ghế huấn luyện viên trưởng đội bóng xứ Catalan trong vài năm tiếp theo. Và khi ông thầy người Hà Lan đến, Robson được giao một vị trí chỉ đạo kỹ thuật của câu lạc bộ.
Bobby Robson rời Barcelona vào mùa hè 1998, để trở về chốn cũ: PSV Eindhoven. Sau 2 năm ở Barça, vị huấn luyện viên người Anh, người đã khai phá được hết tài năng của tiền đạo trẻ Ronaldo, đã để lại trong lòng người hâm mộ những ấn tượng tốt đẹp khó phai.

bobby-intro_1454058i.jpg
 

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Louis Van Gaal (1997-2000 / 2002-2003)

Van-Gaal.jpg

3 mùa giải ở sân Camp Nou, Louis Van Gaal đã giành được 4 danh hiệu trong nước, thế nhưng vị chiến lược gia người Hà Lan lại không thể giúp Barça đoạt chiếc cúp nào mang tầm cỡ châu lục ...

Louis van Gaal, tên đầy đủ là Aloysius Paulus Maria "Louis" van Gaal, sinh ngày 8/8/1951 tại Amsterdam, Hà Lan, ở một nơi ngay gần sân vận động De Meer cũ, lúc đó còn là sân nhà của Ajax.
Thời trẻ, van Gaal có một hoài bão lớn lao về nghiệp bóng đá, và ông đã kết hợp việc học thể chất với học văn hóa để nuôi dưỡng giấc mơ của mình. Khi chính thức trở thành cầu thủ, van Gaal đã thi đấu cho rất nhiều câu lạc bộ khác nhau ở giải hạng nhất và hạng nhì Hà Lan như De Meer, Ajax, Antwerp, Sparta Rotterdam hay AZ. Mùa giải 1986-1987, van Gaal chính thức từ giã sự nghiệp chơi bóng, khi đó ông đang khoác áo AZ. Sau đó ông được giữ lại và đảm nhận một vị trí thành viên ban huấn luyện câu lạc bộ. Đây cũng là bước đệm cho những thành công sau này trên cương vị huấn luyện viên của Louis van Gaal. Vào mùa giải 1988-1989, một năm sau khi đảm nhận vị trí huấn luyện viên trưởng CLB AZ, cơ hội đến với ông thầy người Hà Lan khi Ajax có lời mời ông tham gia vào ban huấn luyện với nhiệm vụ quản lý đội trẻ, và sau đó là trợ lý huấn luyện viên. Sau mùa hè năm 1991, van Gaal chính thức trở thành người dẫn dắt Ajax Amsterdam, và sau đó đã gây dựng được một đội hình được coi là vĩ đại nhất trong lịch sử đội bóng xứ hoa Tuy-líp, đưa Ajax trở thành một trong những câu lạc bộ mạnh nhất châu Âu vào thời điểm đó.

Louis%20Van%20Gaal3.jpg

Những năm tháng ở sân Amsterdam Arena thật sự là khoảng thời gian đẹp nhất trong sự nghiệp của Louis van Gaal, khi ông liên tục đoạt được các danh hiệu trong và ngoài nước. Mùa giải 1991-1992, van Gaal giành được chiếc cúp UEFA, và mùa bóng tiếp theo là chiếc cúp quốc gia Hà Lan cùng Siêu cúp Hà Lan. Năm 1994, dưới sự dẫn dắt của van Gaal, Ajax tiếp tục mang về 2 danh hiệu, đó là chức vô địch quốc gia và Siêu cúp Hà Lan. Đến mùa giải 1994-1995, Ajax thậm chí còn thành công rực rỡ hơn, khi họ mang về chức vô địch quốc gia Hà Lan, Siêu cúp Hà Lan, và hơn hết, chiếc cúp vô địch châu Âu. Mùa giải huy hoàng cuối cùng của van Gaal cùng Ajax là cú ăn 4 vào năm 1995-1996, khi đội bóng của ông giành được chức VĐQG Hà Lan, Siêu cúp Hà Lan, Toyota Cup (Sau này là Cúp liên lục địa) và Siêu cúp châu Âu.

anp20040726210114001.jpg

Tuy nhiên, một câu chuyện hay không phải lúc nào kết thúc cũng có hậu. Mùa giải cuối cùng dẫn dắt Ajax, Louis van Gaal đã phải chịu những thất bại cay đắng, khi đội bóng của ông không giành được danh hiệu nào, về thứ 4 ở giải VĐQG, và để thua Juventus trên chấm luân lưu 11m, lỡ hẹn với chiếc Cúp vô địch châu Âu. Kết thúc mùa giải, van Gaal rời Ajax để đến với Barça, thay thế huấn luyện viên Bobby Robson. Những ngày đầu ở CLB, van Gaal đã phải rất vất vả để khiến các cầu thủ hiểu được thứ triết lý bóng đá của riêng ông.

0+louis+van+gaal+barcelona.jpg

Mùa giải 1997-1998, năm đầu tiên dẫn dắt đội bóng xứ Catalan, van Gaal đã ngay lập tức mang về cho sân Camp Nou 3 danh hiệu: chức vô địch La Liga, cúp Nhà vua và Siêu cúp châu Âu. Lần đầu tiên sau 39 năm, Barça đã giành được cú đúp vô địch giải đấu và cúp quốc gia. Mùa bóng tiếp theo, van Gaal cùng đội bóng Blaugrana tiếp tục vô địch La Liga, và như vậy, sau 2 mùa giải thống trị, Barça lại trở thành đội bóng số 1 Tây Ban Nha, điều mà từ sau thời đại của Enrique Fernández và Helenio Herrera chưa ai làm được. Năm thứ 3 của van Gaal tại sân Camp Nou, mọi thứ bắt đầu diễn biến theo chiều hướng xấu khi Barça chỉ về thứ 2 ở La Liga, và thất bại trong trận bán kết ở cả 2 đấu trường Champions League và cúp Nhà vua, điều đó có nghĩa là mùa giải năm ấy đội bóng xứ Catalan trắng tay.

louis_van_gaal.jpg
vangaal004.jpg

Sau khi chủ tịch đương nhiệm Josep Lluís Núñez kêu gọi bầu cử cho vị trí chủ tịch mới của CLB vào tháng 5 năm 2000, và không tự ứng cử tiếp, Louis van Gaal cũng tuyên bố giã từ sự nghiệp huấn luyện viên, và cũng từ bỏ nốt phần còn lại của bản hợp đồng của ông với CLB.

vangaal002.jpg

Mùa giải 2002-2003, sau 3 năm không giành được 1 danh hiệu nào, chủ tịch mới của đội bóng xứ Catalan, Joan Gaspart, thuyết phục van Gaal trở lại với CLB, và vị huấn luyện viên người Hà Lan quyết định bắt đầu lại với Barça. Nhưng chỉ sau 6 tháng, sự nghèo nàn trong phong độ mà đội bóng Blaugrana thể hiện tại La Liga với 6 trận thắng, 5 trận hòa và 8 trận thua đã khiến van Gaal phải chịu nhiều sự chỉ trích, và tháng 1 năm 2003, ban lãnh đạo đội bóng đã thống nhất với van Gaal vài điều khoản để hủy bản hợp đồng đang dang dở.
2 nhiệm kỳ dẫn dắt Barça, van Gaal đã trải qua 201 trận đấu cùng CLB, và đã nếm trải từ những mùa bóng huy hoàng đến những khoảng thời gian đen tối, những gì ông đóng góp cho đội bóng xứ Catalan là đáng được ghi nhận.
 

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Llorenç Serra Ferrer (2000-2001)

serra-ferrer.jpg

Năm 1997, khi Louis van Gaal đảm nhận vị trí HLV trưởng FC Barcelona, Serra Ferrer cũng bắt đầu công việc huấn luyện đội trẻ của CLB. Và đến năm 2000, khi van Gaal bị sa thải, Ferrer được giao vị trí kế nhiệm ông thầy người Hà Lan.

Llorenç Serra Ferrer sinh ngày 5/3/1953 tại Sa Pobla (Majorca, Tây Ban Nha). Ông khởi đầu sự nghiệp huấn luyện viên của mình tại Unión Deportiva Poblense, một CLB chơi ở Tercera División (hạng dưới Segunda B) và có sân vận động mang tên: Nou Camp (tên đầy đủ: Estadio Nou Camp de Sa Pobla). Tại đây, Ferrer đã bước đầu thể hiện được năng lực của mình khi đưa UD Poblense lên chơi tại Segunda División B. Sau đó, cơ hội thử sức tại một giải đấu tầm cỡ đã đến khi Real Mallorca ngỏ lời mời ông làm HLV trưởng. Tại đây, Serra Ferrer bắt đầu gây dựng được tên tuổi và vào năm 1993, ông ký hợp đồng chính thức trở thành HLV trưởng CLB Real Betis. Tại đây, ngay năm đầu tiên dẫn dắt Los Verdiblancos, Ferrer đưa CLB thăng hạng lên La Liga, và về thứ 3 trên bảng xếp hạng. Và đến năm 1997, cùng với Louis van Gaal, Ferrer đến với sân Camp Nou. 3 năm đầu tiên tại Barcelona, Ferrer đảm đương vị trí dẫn dắt đội trẻ, và khi Louis van Gaal bắt đầu gặp những thất bại, thì cơ hội của Ferrer cũng tới. Năm 2000, Joan Gaspart, vị chủ tịch mới của CLB, người kế nhiệm Núñez, chỉ định Ferrer vào vị trí HLV trưởng Barça sau sự ra đi của Louis van Gaal.

image.php

Mùa giải ấy, dưới sự dẫn dắt của Ferrer, Barça vấp phải liên tiếp những thất bại. Họ bị loại khỏi vòng đấu bảng Champions League và xuống chơi ở UEFA Cup, tại đây con đường đến với chiếc cúp UEFA cũng bị chặn đứng sau trận chung kết với Liverpool. Ngày 23/4/2001, sau trận thua Osasuna tại La Liga, Ferrer chính thức bị thay thế bởi Carles Rexach và trở lại bộ phận kỹ thuật của CLB. 1 năm sau đó ông rời sân Camp Nou.

serra1.jpg
 

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Carles Rexach (1988, 1991, 1996 và 2001-2002)

Rexach.jpg

“Cậu bé khu Pedralbes” từ giã sự nghiệp cầu thủ vào năm 1979 sau khi đã cống hiến trọn tuổi trẻ của mình trong màu áo Blaugrana, nhưng ngay sau đó đã trở lại sân Camp Nou với nhiệm vụ dẫn dắt đội trẻ của CLB.

Carles Rexach tên đầy đủ là Carles Rexach Cerdà, còn được gọi là Charly Rexach hay Carlos Rexach, ông sinh ngày 13/1/1947 tại khu Pedralbes thuộc quận les Corts, thành phố Barcelona. Toàn bộ sự nghiệp của Rexach gắn liền với Barça, trên cả cương vị cầu thủ lẫn huấn luyện viên. Ông đến với sân Camp Nou từ năm 12 tuổi, chơi bóng tại đây trong 22 năm và trong 22 năm tiếp theo, gia nhập vào thành phần ban huấn luyện với những nhiệm vụ như tìm kiếm tài năng trẻ, huấn luyện viên và huấn luyện viên trưởng đội bóng. Ông và Johan Cruyff, trong và ngoài sân cỏ, đã sát cánh cùng nhau mang về cho Barça rất nhiều những danh hiệu cao quý của bóng đá Tây Ban Nha và thế giới. Trong đó có chiếc cúp vô địch La Liga 1974 (chiếc cúp đầu tiên sau 14 năm mong mỏi), khi đó Rexach còn là cầu thủ, và khi trở thành huấn luyện viên, Rexach đã là người trợ giúp đắc lực cho Cruyff để gây dựng thời kì hoàng kim với "Dream Team" vào những năm 1988-1996. Rexach cũng đã đảm nhận vị trí HLV trưởng tạm quyền 3 lần trước khi chính thức nhận nhiệm vụ dẫn dắt đội bóng vào năm 2001.

rexach2.gif


Sau khi tham gia vào thành phần ban huấn luyện đội bóng xứ Catalan, đóng góp đầu tiên của Rexach là việc đồng sáng lập học viện bóng đá Escuela TARR cùng những đồng đội cũ như Antoni Torres, Juan Manuel Asensi và Joaquim Rifé. Mùa giải 1987-1988 là năm đầu tiên Rexach trở thành trợ lý huấn luyện viên, và ông đã cùng Luis Aragonés giành chiếc cúp Nhà vua sau chiến thắng 1-0 trước Real Sociedad của San Sebastian. Những năm tiếp theo, cùng với Johan Cruyff, Rexach đã giúp CLB đoạt được liên tiếp những danh hiệu trong và ngoài nước, ông cũng thay thế Cruyff một thời gian khi vị HLV người Hà Lan phải nằm viện để thực hiện ca phẫu thuật tim. Trong số những trận đấu mà Rexach thay thế tạm thời Aragonés hay Cruyff, có lẽ đáng nhớ nhất là trận thắng 6 bàn không gỡ trên sân Bilbao, một trận đấu mà đội bóng Blaugrana đã thực sự làm bẽ mặt thày trò Javier Clemente. Sau đó, vào năm 1996, khi Cruyff bị sa thải, Rexach cũng đảm nhận vị trí này một thời gian.

Rexach_2001-02.JPG

Giai đoạn cuối mùa giải 2000-2001, Charly một lần nữa nhận nhiệm vụ quản lý đội bóng khi ban lãnh đạo quyết định thay thế Llorenç Serra Ferrer. Kết thúc năm đó Rexach đã giúp Barça giành một suất tham dự Champions League, và trận đấu cuối cùng mùa giải ghi dấu một trong những bàn thắng đẹp nhất trong sự nghiệp của Rivaldo. Năm tiếp theo, ông một lần nữa giúp CLB hạ cánh ở top 4 tại La Liga, lọt qua vòng bảng tại Champions League, nhưng lại thất bại 1-3 tại bán kết CL bởi Real Madrid.
Khi Louis Van Gaal bắt đầu giai đoạn thứ 2 của mình tại sân Camp Nou, Carles Rexach trở thành thư ký kĩ thuật của CLB.

Ahorahabloyo.jpg
 

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Radomir Antić (2003)

Antic.jpg

Trong lịch sử bóng đá, có 2 huấn luyện viên đã từng dẫn dắt cả FC Barcelona và Real Madrid, một trong số đó là Enrique Fernández Viola, và người còn lại chính là Radomir Antić.

Radomir Antić (Tên Serbia là Радомир Антић) sinh ngày 22/11/1948 tại thị trấn Žitište, thuộc tỉnh Vojvodina, miền bắc Serbia). Thời còn chơi bóng, ông đã thi đấu 17 năm ở vị trí trung vệ, và đã từng chơi tại khá nhiều giải đấu ở châu Âu (ở Serbia, Tây Ban Nha và Anh). Antić kết thúc sự nghiệp chơi bóng của mình ở tuổi 36, và bắt đầu bước sang một lĩnh vực mới: Huấn luyện viên sân cỏ.
Sau nhiều năm chèo lái các CLB như Real Zaragoza, Real Madrid, Real Oviedo hay Atlético Madrid, Antić rời xa sân cỏ trong khoảng 1 năm rưỡi, trước khi được chủ tịch Joan Gaspart mang về sân Camp Nou với cương vị HLV trưởng. Đó là cuối tháng 1 năm 2003, lúc đó Barça đang gặp những khó khăn trầm trọng sau khi Louis van Gaal ra đi. Huấn luyện viên tạm quyền lúc đó là Antonio de la Cruz đã tỏ ra bất lực, Barça rơi xuống vị trí thứ 15 trên bảng xếp hạng La Liga với 23 điểm sau 20 vòng đấu (6 thắng, 5 hoà và 9 trận thua), một trong những giai đoạn đáng xấu hổ nhất trong lịch sử CLB. Dẫu cho tại đấu trường UEFA Champions League, đội bóng Blaugrana toàn thắng trong cả 2 lượt đấu, nhưng gánh nặng đặt lên vai Antić vẫn là rất lớn, và việc cải thiện thành tích tại La Liga được coi là mục tiêu số 1 của HLV người Serbia. Cũng có thông tin cho rằng bản hợp đồng 6 tháng trị giá €600k của Antić có kèm theo một điều khoản rằng nếu ông giúp Barça giành được một suất tham dự Champions League năm sau (kết thúc mùa giải ở top 4 trên BXH), thời hạn của bản hợp đồng sẽ được kéo dài thêm 1 năm.
Thừa hưởng một đội hình lạ lẫm mà ông chưa từng làm việc cùng, Antić ngay lập tức đưa ra những sự thay đổi, bắt đầu bằng việc mang về hậu vệ đầy nhiệt huyết Juan Pablo Sorín từ Lazio. Ông cũng bắt đầu sử dụng thường xuyên thủ môn trẻ tài năng Víctor Valdés và đưa một cầu thủ trẻ khác vào đội 1 là Andrés Iniesta.

radomir-antic.jpg


Antić đã ổn định lại đội hình, và với 9 trận thắng, 6 trận hòa cùng 3 trận thua, ông đã đưa Barça lên vị trí thứ 6 tại La Liga khi mùa giải kết thúc, đảm bảo 1 suất dự UEFA Cup năm sau. Song song với giải đấu trong nước, tại Champions League, Barça của Antić vượt qua vòng đấu bảng một cách đầy thuyết phục, điều này là điểm tựa tinh thần rất lớn, tiếp thêm sự tự tin cho các cầu thủ trong suốt phần còn lại của mùa giải. Một điểm nhấn lúc đó là trận đấu thứ 3 của Antić cùng Barcelona, trận gặp Inter Milan tại Champions League, là trận đấu mà người khổng lồ xứ Catalan đã đè bẹp chú rắn xanh đến từ nước Ý với tỉ số tuyệt đối 3-0. Đây cũng là trận trở lại Champions League của vị HLV người Serbia sau 6 năm, và là trận thắng thứ 11 liên tiếp của Barça tại đấu trường danh giá nhất châu Âu, xô đổ kỷ lục cũ của AC Milan. Tuy nhiên, đội bóng của Antić lại dừng chân ngay tại vòng tứ kết trước Juventus của Marcello Lippi. 6 năm trước đó, Antić đã từng thất bại với Atlético, và giờ cũng là 30 phút căng thẳng của hiệp phụ, một lần nữa vị HLV người Serbia lại ngậm ngùi nhìn đối thủ đi tiếp. Barça đã có một kết quả rất tốt ở trận lượt đi tại Turin, sau khi gỡ hòa bằng bàn thắng của Javier Saviola 10 phút trước khi trận đấu kết thúc. Với lợi thế ghi bàn trên sân khách, các cầu thủ Barça tràn đầy tự tin bước vào trận lượt về tại chảo lửa Camp Nou. Nhưng Juventus không hề tầm thường, phút thứ 52, Nedved mở tỉ số cho Juve sau một pha xâm nhập vòng cấm. Đến phút 65, Barça trả lời bằng bàn gỡ hòa của Xavi, và sau khi Edgar Davids nhận chiếc thẻ vàng thứ 2 vào phút 78, đội bóng xứ Catalan tràn lên tấn công như vũ bão. Antić đưa Juan Roman Riquelme vào thay Marc Overmars, và đầu hiệp phụ thay Michael Reiziger bằng Gerard López. Nhưng trong một đêm tỏa sáng của Lilian Thuram, Barça đã không thể biến lợi thế hơn người thành bàn thắng. Và như một định mệnh, cuối hiệp phụ thứ 2, trong một pha phản công bên cánh phải, từ đường tạt bóng của Alessandro Birindelli, Marcelo Zalayeta thực hiện cú dứt điểm duy nhất của Juve trong suốt khoảng thời gian đó, hạ gục thủ môn Bonano, chấm dứt cuộc chinh phục của đội bóng Blaugrana...

10815679-Zalayeta1A.jpg

Mặc dù đã kéo được đội bóng ra khỏi quãng thời gian vô cùng khó khăn, kết thúc mùa giải Antić bị thay thế bởi Frank Rijkaard khi Joan Laporta trở thành chủ tịch mới của CLB. Sau khi rời Barça, Antić đến làm HLV trưởng CLB Celta Vigo, khi CLB này cũng đang trong khủng hoảng. Nhưng Antić đã không thể làm điều tương tự như những gì ông đạt được tại sân Camp Nou, và vị HLV người Serbia từ chức chỉ sau vỏn vẹn 2 tháng. Hiện tại, Antić đang là HLV trưởng ĐTQG Serbia, và hợp đồng của ông có giá trị đến năm 2012.
 
Sửa lần cuối:

yulong

Cựu cán bộ viện bảo tàng xã
Đầu quân
24/7/07
Bài viết
786
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
35
Nơi ở
Xứ Catalan huyền thoại
Barça đồng
0
Frank Rijkaard (2003-2008)

Rijkaard01.jpg

Từ trước khi đến với sân Camp Nou, Rijkaard đã nổi tiếng là một con người trầm tính và luôn có chừng mực. Thế nhưng thứ bóng đá mà ông truyền cho các cầu thủ Barça lại vô cùng cuồng nhiệt, mạnh mẽ và mang đầy màu sắc.

Rijkaard tên đầy đủ là Franklin Edmundo Rijkaard, ông sinh ngày 30/9/1962 tại Amsterdam, Hà Lan, trong một gia đình có mẹ là người Hà Lan gốc, còn cha là người Suriname. Lớn lên tại một thành phố nổi tiếng với việc sản sinh ra rất nhiều huyền thoại bóng đá thế giới, Rijkaard đã sớm thể hiện tài năng của mình trên sân cỏ. Năm 17 tuổi, Rijkaard tốt nghiệp học viện đào tạo trẻ của Ajax, chính thức gia nhập đội bóng, và ngay lập tức ghi bàn trong trận đấu ra mắt. Sau đó, trong suốt 8 mùa giải Rijkaard chơi bóng tại SVĐ Amsterdam Arena, Ajax vô địch 3 mùa giải, giành Cúp quốc gia 3 lần và đoạt 1 chiếc European Cup II (Cup Winners' Cup). Tháng 9 năm 1987, Rijkaard đã gây xôn xao dư luận bằng việc bỏ khỏi buổi tập và thề rằng sẽ không bao giờ chơi bóng trong đội hình của Johan Cruyff nữa. Sau đó chàng trai trẻ người Hà Lan chuyển đến CLB Sporting CP tại giải VĐQG Bồ Đào Nha, nhưng bản hợp đồng được ký quá muộn, khiến cho Rijkaard không được phép có tên trong danh sách thi đấu tại bất kỳ mặt trận nào. Ngay lập tức Real Zaragoza đề nghị mượn Rijkaard. Và sau 1 mùa giải thi đấu cho đội bóng Tây Ban Nha, Rijkaard đặt bút ký vào bản hợp đồng với AC Milan.

53392.gif


5 năm tại sân San Siro, Rijkaard đã ghi tên mình vào lịch sử bóng đá thế giới như một cầu thủ huyền thoại. Huấn luyện viên Arrigo Sacchi đã biến trung vệ Frank Rijkaard thành một tiền vệ trụ xuất sắc nhất thế giới vào thời điểm đó. Với lối chơi mạnh mẽ, lì lợm, Rijkaard đã cùng những người đồng hương Marco van Basten và Ruud Gullit lập ra bộ ba Hà Lan huyền thoại, giúp Milan "tàn phá" đấu trường châu Âu, vô địch C1 hai năm liền (1989, 1990), vô địch Serie A 2 lần (1988, 1992). Trong khoảng thời gian Rijkaard ở Ý, giới truyền thông cũng nói rằng ông đã gửi lời xin lỗi tới Johan Cruyff.
Sau 5 mùa giải ở Milan, Rijkaard trở về Ajax vào năm 1993. Dưới sự dẫn dắt của Louis van Gaal, ông cùng Danny Blind tạo nên một bộ đôi trung vệ thép, góp công rất lớn giúp Ajax lên ngôi tại Hà Lan 3 năm liền, và đặc biệt bất bại trong cả mùa giải 1994-1995. Hơn thế nữa, đội bóng xứ sở hoa Tuy-líp còn vươn bóng ra cả châu Âu, giành chức vô địch European Cup 1995, và thật ý nghĩa khi trận chung kết đó Ajax đã đánh bại chính Milan. Rijkaard cũng có tên trong FIFA 100, bản danh sách của Pele về 125 cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.

5.jpg

Kết thúc sự nghiệp cầu thủ lừng lẫy, Rijkaard tiếp tục chinh phạt những cột mốc mới của bóng đá trong vai trò huấn luyện viên. Năm 1998, ông chính thức được bổ nhiệm làm HLV trưởng ĐTQG Hà Lan. Trước đó Rijkaard đã là trợ lý huấn luyện tại đây, cùng với Johan Neeskens và Ronald Koeman, giúp đỡ rất nhiều cho HLV trưởng Guus Hiddink. Ban đầu, vị HLV trẻ không được đánh giá cao do ông vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm cầm quân. Nhưng màn trình diễn của đội bóng xứ sở hoa Tuy-líp tại Euro 2000 đã chứng minh khả năng của ông. Hà Lan vượt qua vòng đấu bảng với 3 trận toàn thắng trước CH Séc, Đan Mạch và Pháp. Ở tứ kết "cơn lốc màu da cam" đã cuốn phăng Yugoslavia với tỉ số đậm nhất giải: 6-1. Tuy nhiên ở bán kết,đội bóng của Rijkaard đã phải dừng bước trước Italy sau loạt luân lưu may rủi, và vị HLV người Hà Lan từ chức ngay sau đó. Đến năm 2001, Rijkaard ký hợp đồng với Sparta Rotterdam tại giải VĐQG Hà Lan, nhưng đã không làm được gì nhiều tại đây. Cuối mùa giải CLB xuống hạng và Rijkaard bị buộc thôi việc.

Sau gần 1 năm rời xa sân cỏ, vào mùa hè 2003 Rijkaard đến với sân Camp Nou. Vào thời điểm này, CLB đang có nhiều thay đổi, Joan Laporta trở thành vị chủ tịch mới, và theo đó hàng ngũ ban lãnh đạo cũng có nhiều xáo trộn. Lúc này đang có nhiều ý kiến trái chiều về việc Laporta không tạo điều kiện cho tiền vệ người Anh David Beckham gia nhập CLB, và các cổ động viên có vẻ không hài lòng về điều đó. Với đội hình hầu hết là những gương mặt cũ, Rijkaard cũng gặp nhiều khó khăn ban đầu. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của những người trợ lý đồng hương như Henk Ten Cate hay Eusebio Sacristan (cựu thành viên "Dream Team") và bản hợp đồng mới, ngôi sao đang lên Ronaldinho, Rijkaard cũng dần dần ổn định được đội hình.

FrankRijkaardNew.jpg

2 năm đầu tiên, với những khởi đầu chậm chạp, vị HLV người Hà Lan đã phải chịu đựng rất nhiều sự chỉ trích từ công chúng, đỉnh điểm là tháng 12 năm 2003, khi Barça thất bại 1-2 trước Real Madrid ngay tại sân Camp Nou. Khi đó rất nhiều CĐV đã kêu gọi ông từ chức, nhưng Rijkaard vẫn kiên trì đi tiếp, vì ông biết rằng sẽ có 1 ngày vinh quang đến với ông tại đây. Tháng 1 năm 2004, Rijkaard mang về sân Camp Nou tiền vệ Edgar Davids trong 1 bản hợp đồng cho mượn từ Juventus. Từ đó dường như cỗ máy Barcelona mới bắt đầu vào guồng, Barça liên tiếp giành những chiến thắng, trận siêu kinh điển lượt về năm đó, đội bóng Blaugrana đã thanh toán sòng phẳng với Real bằng chiến thắng 2-1 trên sân Bernabeu, và kết thúc mùa giải với vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng (trước đó đã có thời điểm đội bóng xứ Catalan rớt xuống gần nhóm xuống hạng). Mùa giải tiếp theo, với hàng loạt những cái tên mới trong đội hình như Deco, Samuel Eto'o, Rafael Márquez, Ludovic Giuly, Larsson, Edmílson, Belletti và Sylvinho, cùng vài cầu thủ tài năng đưa lên từ đội trẻ như Víctor Valdés, Carles Puyol, Xavi và Andrés Iniesta, Rijkaard đã xây dựng được một đội hình mạnh mẽ và ổn định, với khả năng tấn công đa dạng dựa trên sức sáng tạo vô bờ bến của Ronaldinho. Bất chấp 4 chấn thương nghiêm trọng của Motta, Gabri, Edmílson và Larsson vào giai đoạn trước mùa đông, Barça với lối đá tấn công đã giành chức vô địch La Liga một cách đầy thuyết phục trước 3 vòng đấu.

Frank%20Rijkaard.jpg

Mùa giải 2005-2006 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp của vị HLV người Hà Lan khi ông cùng các học trò, ngoài việc giành chức vô địch La Liga, đã bước lên đỉnh châu Âu với danh hiệu vô địch Champions League. Tại La Liga, Barça thể hiện sức mạnh của mình với chuỗi 14 trận thắng liên tiếp, bao gồm cả chiến thắng 3 bàn không gỡ trước đại kình địch Real Madrid ngay tại sân Bernabéu, trận đấu đó cũng khiến Rijkaard trở thành vị HLV đầu tiên của Barcelona giành được 2 thắng lợi tại Santiago Bernabéu, điều mà thậm chí những Johan Cruiff, Louis van Gaal hay Luis Aragonés cũng đã không thể hoàn thành. Tại đấu trường châu Âu, Barça lần lượt đánh bại Chelsea tại Stamford Bridge với tỉ số 1-2, Milan tại San Siro với tỉ số 0-1, và cuối cùng, đội bóng Blaugrana đã hoàn tất cuộc chinh phục bằng chiến thắng trước Arsenal với tỉ số 2-1 trong trận chung kết trên sân Stade de France, Paris, với 2 bàn thắng của Henrik Larsson và Juliano Belletti. Cùng với đó, Rijkaard trở thành 1 trong 5 người duy nhất đã từng vô địch châu Âu cả trên danh nghĩa cầu thủ và huấn luyện viên, cùng với Miguel Muñoz, Giovanni Trapattoni, Johan Cruiff và Carlo Ancelotti. Ngày 8/3/2006 Rijkaard được UEFA vinh danh bởi những đóng góp của ông cho European Cup trong vai trò cầu thủ và huấn luyện viên. Năm đó, Rijkaard cũng được IFFHS chọn làm huấn luyện viên trưởng tiêu biểu của năm, đứng trên José Mourinho và Juande Ramos.

1242838532-barca.jpg


Sau 1 năm đầy thành công, vô địch cả Siêu cúp Tây Ban Nha sau chiến thắng 4-0 trước Espanyol, đến mùa giải 2006-07, Barça dường như không còn ý chí chiến đấu. Đội bóng chủ sân Camp Nou để Liverpool vượt qua tại vòng 1/16 Champions League bằng luật bàn thắng trên sân khách. Tại La Liga, Barça để mất danh hiệu vô địch thứ 3 liên tiếp vào tay Real Madrid do kém hiệu số bàn thắng bại. Cũng trong chuỗi thất bại ấy, Barça bị Getafe loại khỏi vòng bán kết cúp Nhà vua với tỉ số 4-0. Thêm vào đó, sau những thất bại cay đắng trước Seville và Internacional de Porto Alegre, Barça cũng đánh mất Siêu cúp châu Âu và Cúp vô địch thế giới các CLB. Danh hiệu duy nhất của đội bóng Blaugrana năm đó là chiếc Catalan Cup, với Espanyol là đội về nhì.
Mùa hè 2007, sân Camp Nou lại xuất hiện những gương mặt mới như Thierry Henry, Yaya Touré, Eríc Abidal và Gabriel Milito, và với một đội hình được coi là rất mạnh trong lịch sử CLB, Barça được kỳ vọng rất nhiều bởi người hâm mộ. Nhưng số phận đã chống lại đội bóng Blaugrana, mặc dù đều được đánh giá là chơi hay hơn đối thủ, Barça vẫn bị loại ở cả bán kết Champions League trước Manchester United, lẫn ở bán kết cúp Nhà vua trước Valencia. Tại La Liga, đội bóng xứ Catalan cũng chỉ giành được vị trí thứ 3...
Sau trận thua trước Manchester United tại bán kết Champions League năm đó, Rijkaard một lần nữa đứng trước sức ép rất lớn từ dư luận, và ông đã trả lời với báo chí:
"I have no intention of leaving. It would be different if the players were saying it is time for me to go but that is not the case."
(Tôi không có ý định rời khỏi CLB. Nếu như các cầu thủ nói rằng đây là lúc để tôi từ bỏ chiếc ghế HLV trưởng, điều đó sẽ khác. Nhưng thực tế các cầu thủ đã không hề nói vậy."
Ngày 1/5/2008, có những nguồn tin nói rằng Frank Rijkaard đã tâm sự với 1 đồng nghiệp về việc ông sẽ rời băng ghế chỉ đạo Barcelona. Nhưng 24 giờ sau, trong 1 cuộc họp báo, Rijkaard chính thức phủ nhận thông tin trên.
Ngày 8/5/2008, sau thất bại 4-1 trước Real Madrid ngay tại Camp Nou, chủ tịch CLB Joan Laporta tuyên bố kết thúc mùa giải Frank Rijkaard sẽ rời CLB, và người thay thế sẽ là Josep Guardiola. Laporta đã ngợi khen và bày tỏ sự kính trọng cũng như lòng biết ơn đối với Frank Rijkaard sau những thành công lịch sử mà ông mang lại cho CLB trong suốt 5 năm gắn bó: 2 danh hiệu La Liga (2004-05, 2005-06), UEFA Champions League 2006, 2 Siêu cúp Tây Ban Nha (2005-06, 2006-07) và 3 Catalan Cup (2003-04, 2004-05 và 2006-07). Dưới thời Rijkaard, Barcelona cũng đánh dấu sự trở lại sau 5 năm trắng tay, lấy lại hình ảnh một đội bóng hàng đầu Tây Ban Nha và châu Âu, với lối đá tấn công quyến rũ khiến cả thế giới bị mê hoặc.
Rijkaard đã dẫn dắt Barça trong tổng cộng 283 trận đấu chính thức, giành 167 chiến thắng, 64 trận hoà và 52 trận thua, trong đó Barça ghi được 544 bàn thắng và để thủng lưới 254 lần. Tỉ lệ chiến thắng của đội bóng Blaugrana dưới thời Rijkaard là 59%, với trung bình 1.92 bàn thắng và 0.89 bàn thua mỗi trận. 112 chiến thắng tại La Liga cũng là một thành tích đáng nể của ông, trước Rijkaard chỉ có 1 người làm được điều đó là Johan Cruyff với 183 trận thắng.
Hiện tại, Rijkaard đang là HLV trưởng CLB Galatasaray tại giải VĐQG Thổ Nhĩ Kỳ. Hợp đồng của ông sẽ kết thúc vào mùa hè năm 2011, và liên đoàn bóng đá Úc đã có lời mời ông thay thế vị trí của Pim Verbeek, người sẽ ra đi sau World Cup 2010.

imgFrank%20Rijkaard3.jpg
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Xã viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Chủ đề mới nhất

Giới thiệu

  • Barçamania Việt Nam thành lập từ năm 2005. Chúng tôi không thiên vị trong các thảo luận, đảm bảo thông tin chính xác không giả mạo. Chúng tôi cam kết xây dựng diễn đàn lành mạnh và phi lợi nhuận.
Top