Bóng đá & Cuộc sống

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Sân vận động - Nơi trú ngụ của những linh hồn bóng đá

Sân vận động - Nơi trú ngụ của những linh hồn bóng đá

Trận chung kết World Cup 2014 sẽ được tổ chức ở sân bóng giầu huyền thoại nhất lịch sử bóng đá thế giới: Maracana. Đó là một ngôi nhà chứa đầy truyền thuyết túc cầu, luôn tạo những điều kỳ diệu mê hoặc. Hãy cùng ghé thăm ngôi nhà chứa đựng linh hồn của bóng đá đó!
BRA626.jpg

Tổng quan sân Maracana sau khi được tôn tạo để phục vụ cho trận chung kết World Cup đầu tiên trong lịch sử​

SỰ TRỞ LẠI CỦA ĐẤU TRƯỜNG HUYỀN THOẠI MARACANA
Năm 2013 là thời điểm bản lề quan trọng của nền bóng đá Brazil. Chỉ còn 365 ngày nữa, World Cup 2014 sẽ diễn ra ở xứ sở Samba. Và trận chung kết World Cup 2014 đã được chọn nơi tổ chức. Đó chính là sân bóng giầu huyền thoại nhất lịch sử túc cầu thế giới: Maracana. Đó là một ngôi nhà chứa đầy truyền thuyết túc cầu, luôn tạo những điều kỳ diệu mê hoặc giống như SVĐ Zerao – thánh đường tình dục nằm trên đường xích đạo giữa rừng già Amazon xa xôi hay “mảnh đất thiêng” Signal Iduna Park trong tâm tưởng mỗi CĐV Borussia Dortmund. Nào, chúng ta hãy cùng ghé thăm những ngôi nhà chứa đựng linh hồn của bóng đá đó!

TÀI SẢN CHUNG CỦA NGƯỜI BRAZIL
Không có một chương riêng về Maracana thì chắc chắn mọi tác phẩm viết về bóng đá Brazil đều không đầy đủ. Chỉ cần lướt qua danh sách những huyền thoại bóng đá thường xuyên trình diễn tại đấy, là đã thấy ngợp: Garrincha, Nilton Santos, Didi, Mario Zagallo, Gerson, Rivelino, Zico...

Đấy là nơi mà “Vua bóng đá” Pele đã ghi bàn thắng thứ 1.000 trong sự nghiệp bóng đá đỉnh cao. Đấy là sân nhà của Flamengo, Botafogo, Fluminense, Vasco da Gama - những CLB nổi tiếng hàng đầu Brazil.

Wikipedia ghi nhận: trận derby “Fla-Flu” nổi tiếng từng lôi kéo 194.603 khán giả đến Maracana năm 1963. Mà đâu riêng gì bóng đá, các đại danh ca, các ban nhạc huyền thoại như Frank Sinatra, Beatles hoặc Rolling Stones đều đã biểu diễn tại đấy.

Quá khứ huy hoàng của Maracana lộ rõ ngay từ những chi tiết thời sự nhất. Hàng ngàn thổ dân, sinh viên, công chức... đã biểu tình ở Rio de Janeiro trong những ngày cuối năm 2012, để phản đối kế hoạch tư hữu hóa SVĐ Maracana hiện đại, vốn chưa khánh thành. Maracana phải là tài sản chung của người Brazil, chứ không thể thuộc về một hay một nhóm cá nhân nào!
Maracana.jpg

Sân Maracana sẽ có hình hài mới khi Brazil tổ chức World Cup 2014​

ĐẤU TRƯỜNG KỲ BÍ ĐẦY HUYỀN THOẠI
Maracana ra đời vài năm sau khi kết thúc Thế chiến II. Hồi ấy, cả châu Âu còn đang chìm trong điêu tàn, và Brazil đã không bỏ qua cơ hội đăng cai VCK World Cup 1950. Maracana được khởi công xây dựng vào năm 1948 trong hoàn cảnh như vậy.

Đương nhiên nó phải trở thành sân bóng lớn nhất, hoàn hảo nhất thế giới! 10.000 công nhân làm việc hối hả khiến sân Maracana được hoàn thành trong khoảng thời gian kỷ lục. Trên giấy tờ, Maracana có sức chứa 183.000 chỗ, nhiều hơn 43.000 chỗ so với sân bóng lớn nhất thế giới ở thời điểm trước đó là Hampden Park ở Glasgow (Scotland).

Thế rồi, Brazil long trọng khai mạc World Cup 1950 bằng 21 phát đại bác. Khi đội chủ nhà Brazil mở tỷ số ở trận ra quân (thắng Mexico 4-0), trận đấu phải tạm ngưng hàng chục phút để phóng viên của các đài phát thanh tràn vào sân, phỏng vấn nóng ngay trên thảm cỏ Maracana!

Brazil xây SVĐ lớn nhất thế giới Maracana là để tổ chức trận chung kết World Cup 1950, để ĐT Brazil tận hưởng vinh quang vô địch thế giới ngay trên sân nhà? Đúng, và sai. Nhưng trớ trêu thay, điều mà bạn cho là đúng thì thật ra là sai, còn điều mà ai cũng thấy sai thì ít ra còn có chỗ đúng!

Quả đã có chuyện người Brazil - và không chỉ người Brazil - nghĩ rằng đương nhiên là Selecao phải vô địch World Cup tại sân Maracana. Diễn văn chúc mừng những nhà Vô địch của chủ tịch FIFA và tổng thống Brazil khi đó đã được viết sẵn. Báo chí Brazil viết bài bình luận trước ngày diễn ra trận đấu cuối cùng như thể Brazil vô địch là chuyện không còn gì phải bàn cãi: “Ngày mai, chúng ta lên ngôi vô địch World Cup, tại thánh đường Maracana”.

Bây giờ thì ai cũng biết, thảm họa đã ập xuống ĐT Brazil và khoảng 200.000 khán giả trong trận quyết đấu tranh chức vô địch World Cup 1950 (Uruguay thắng Brazil 2-1) là như thế nào. Vâng, đấy thật sự là một thảm họa, được đặt tên là “Maracanazo”.

Bảo Brazil xây sân Maracana để tổ chức trận chung kết World Cup 1950 thì... sai chỗ nào? Sự thật rành rành: World Cup 1950 đâu bao giờ có trận chung kết! Sân Maracana chưa bao giờ tổ chức một trận chung kết World Cup bởi tại Cúp Thế giới 1950, 4 đội mạnh nhất đá vòng tròn để chọn ra nhà Vô địch. Phải đến World Cup 2014, sân Maracana mới chính thức tổ chức một trận chung kết đúng nghĩa.

Tại Brazil, ít nhất đã có 3 cuốn sách hay viết về “Maracanazo”, trong khi Pele và đồng đội vô địch World Cup 1970, đoạt vĩnh viễn Cúp Jules Rimet, chỉ có đúng một cuốn sách viết về họ, phát hành ở Anh chứ không phải ở Brazil!

Nguồn: Bóng Đá + | Sân vận động - Nơi trú ngụ của những linh hồn bóng đá | Bong da
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Ryan Giggs: Nghịch lý của một huyền thoại đa nhân cách

Ryan Giggs: Nghịch lý của một huyền thoại đa nhân cách

Chỉ còn một trận đấu nữa, Ryan Giggs sẽ đi vào lịch sử với tư cách một cầu thủ chơi tới 1.000 trận trong sự nghiệp. Nhưng qua nghìn lẻ một đêm, người ta vẫn không thể lý giải tường tận nhân cách của huyền thoại này... phản trắc gia đình nhưng tận tụy trung thành với CLB. Phải chăng, đó là kết quả của một tuổi thơ đầy mâu thuẫn?

Tính cách phức tạp của Giggs chịu ảnh hưởng từ tuổi thơ sóng gió với người cha 2 mặt (ảnh dưới)?​

NGƯỜI KHÔNG MANG HỌ CHA
Tên khai sinh của Ryan Giggs là Ryan Joseph Wilson. Wilson là họ của cha anh, Danny Wilson, một cầu thủ bóng bầu dục gốc Phi của đội tuyển Xứ Wales. Còn Giggs, là họ mẹ, Lynne Giggs, một cô y tá sinh ra trong gia đình thượng lưu. Mối tình giữa Danny và Lynne, vốn đã phải chiến thắng định kiến xã hội vì màu da của cha anh, tưởng như sẽ rất hạnh phúc. Nhất là khi họ đã có cùng nhau 2 cậu quý tử khỏe mạnh là Ryan và Rhodri.

Nhưng Danny không phải là một người cha kiểu mẫu: ông uống rất nhiều rượu, và thỉnh thoảng nổi cơn đánh vợ. Họ chỉ chung sống với nhau đến năm Ryan 14 tuổi. Và Ryan cũng chỉ mang họ Wilson đến năm đó.

Cậu bé Ryan, khi đó đã phải gánh chịu một bi kịch tinh thần quá lớn. Chính Ryan là người đã phải xách hành lý cho ông Wilson ra ga tàu, rời bỏ gia đình nhỏ của họ. Cậu chỉ vừa hồ hởi được ít lâu: năm 1987 ấy, Sir Alex Ferguson đã đến tận nhà và thuyết phục mẹ Ryan cho cậu được gia nhập Man United. Vừa khoác lên màu áo đỏ mang theo bao nhiêu hy vọng, Giggs đã trở thành một đứa trẻ không có sự chăm sóc của người cha. Cậu bị ném từ độ cao hai nghìn mét xuống mặt đất chỉ trong tích tắc.

Chàng trai vừa bước qua tuổi dậy thì đã có quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời anh: đổi tên từ Ryan Wilson sang Ryan Giggs. Anh khẳng định rằng chính mình tự quyết định làm việc đó, bỏ họ cha theo họ mẹ, để “khẳng định rằng tôi là thành viên của gia đình bên ngoại, xóa đi dấu vết của ông ấy, người làm cả gia đình tôi đau lòng”.

Còn ông Wilson thì tin rằng cậu bé đã bị họ ngoại bơm vào đầu những tư tưởng chống đối với mình. Năm 16 tuổi, khi hộ chiếu của Giggs được làm xong, cả đội U16 của M.U khi ấy đã tròn mắt nhìn anh: “Đây là cậu sao? Sao lại tên là Wilson?”.


Danny Wilson chỉ xuất hiện trở lại khi Ryan Giggs đã trở thành một cầu thủ nổi tiếng. Dù gần như không có liên hệ gì với cả 2 đứa con trong hàng thập kỷ, nhưng khi scandal nổ ra và các tờ báo đem tiền đến gạ gẫm, ông vẫn lên mặt báo và đóng vai một ông bố tỏ ra quan tâm, khi trách móc Ryan Giggs trong scandal ngoại tình với vợ của cậu em trai Rhodri. Hành động này cũng gây phản cảm trong dư luận và tô đậm thêm hình ảnh của một người cha vô trách nhiệm.

NHƯNG THẦN TƯỢNG VẪN LÀ CHA
Mối quan hệ của Ryan Giggs và cha anh có 2 mặt hoàn toàn tương phản: một mặt, anh bỏ họ cha. Nhưng mặt kia, Giggs vẫn coi Danny Wilson là một thần tượng không thể thay thế trong tuổi thơ của mình.

Danny Wilson từng bị chém vào mặt chỉ vì cố bảo vệ con trai. Khi còn nhỏ, Ryan Giggs thường xuyên phải chịu sự phân biệt chủng tộc (PBCT) từ các bạn học. Mặc dù anh có một màu da sáng, nhưng bởi Danny Wilson là một cầu thủ bóng bầu dục có tiếng, và thị trấn nơi gia đình họ sinh sống chỉ có vài nghìn người, nên ai cũng biết rằng Giggs có một người cha da màu.

Anh đã rất khổ sở trong những năm tháng ấy. Nhưng chính những lời chế nhạo của những kẻ độc miệng lại càng khiến Giggs có ý thức rõ ràng hơn về gốc gác của mình, và cảm thấy gắn bó hơn với người cha. Có một lần, khi Giggs bị chế nhạo, Wilson đã đứng ra bảo vệ. Lời qua tiếng lại, rồi một cuộc ẩu đả diễn ra. Ông Wilson bị đánh và nhận một nhát dao vào mặt.


“Ông ấy là người hùng duy nhất của tôi. Tôi không thần tượng một cầu thủ bóng đá nào cả, chỉ thích vài người ở mức độ vừa phải. Bố tôi là thần tượng của tôi” – Giggs tâm sự. Anh vẫn coi trọng những gì Wilson đã mang lại cho mình dù ông ruồng rẫy gia đình.

Thể chất và sự dẻo dai bẩm sinh của một VĐV, tiền vệ này tin rằng mình thừa hưởng từ người cha. Danny Wilson là một cầu thủ không quá thành công trong sự nghiệp (chỉ 5 lần được thi đấu cho đội tuyển bóng bầu dục Xứ Wales). Nhưng ông vẫn khiến Giggs cảm thấy rất tự hào, và quan trọng nhất: thổi cho cả 2 đứa con trai tình yêu thể thao. Rhodri không thành công bằng anh trai, nhưng cũng đã đi theo nghiệp cầu thủ khi trưởng thành.

Ngay cả quyết định đổi tên, Giggs cũng nói rằng điều ấy thiên về việc khẳng định tình cảm dành cho mẹ, hơn là một tuyên ngôn phũ phàng dành cho người cha.

Vừa căm giận, vừa thần tượng, trong Ryan Giggs có thể đã có một phức cảm nào đó được tạo ra từ Danny Wilson. Có thể sẽ cần đến một nỗ lực của các chuyên gia tâm lý học để “đọc vị” được tính cách của huyền thoại Man United. Nhưng có một điều chắc chắn: trong Ryan Giggs tồn tại cùng lúc 2 con người, một kẻ phản trắc khi phản bội vợ, phản bội em trai để làm những điều vô luân, và một người trung thành hết mực, khi chưa bao giờ có ý định rời Man United dù chỉ là trong suy nghĩ. Liệu điều đó có liên quan gì tới tuổi thơ sóng gió của Ryan Giggs?

NHỮNG CỘT MỐC CỦA GIGGS
- Trận đấu đầu tiên: gặp Everton ngày 2/3/1991
- Trận thứ 999: gặp QPR ngày 23/2/2013
- 12 lần VĐ Premiership, 4 FA Cup, 3 League Cup, 2 Champions League
- Cầu thủ thi đấu nhiều trận nhất ở Premiership (652 trận)
- Cầu thủ thi đấu nhiều trận nhất cho M.U (999 trận)
- Cầu thủ duy nhất ghi bàn ở tất cả các mùa giải Premiership

THỐNG KÊ 999 TRẬN THI ĐẤU CỦA GIGGS
- CLB: 652 trận tại Premiership, 73 trận tại FA Cup, 39 trận tại League Cup, 49 trận tại các cúp châu Âu và 18 trận ở các giải khác. Tổng: 931 trận.
- ĐTQG: 64 trận cho ĐT Xứ Wales và 4 trận cho ĐT Liên hiệp Anh. Tổng: 68 trận.

Nguồn: Bóng Đá + | Ryan Giggs: Nghịch lý của một huyền thoại đa nhân cách | Bong da
 
Sửa lần cuối:

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Giá trị của Dortmund: Đây mới là đội bóng số 1 châu Âu!

Giá trị của Dortmund: Đây mới là đội bóng số 1 châu Âu!

Mỗi người sẽ có quan điểm khác nhau về "cái nhất". Nhưng nếu một thực thể được tạo ra bởi sự kết hợp của hàng loạt "cái nhất", thì nó đơn giản là một thứ siêu phàm. Và Dortmund là một "Hoàng tử lai" như thế.

Dortmund là một tập thể rất đồng đều​

XÂY DỰNG ĐỘI HÌNH HAY HƠN ARSENAL
Tiết kiệm là một thói quen của bóng đá Đức. Nhưng sự tiết kiệm có đem lại hiệu quả hay không là vấn đề rất khác. Để so sánh với hiệu quả trong sử dụng ngân sách chuyển nhượng của Dortmund thời của HLV Juergen Klopp, có lẽ ở châu Âu chỉ có Arsenal là xứng đáng.

Trong nhiệm kỳ đã kéo dài 5 mùa giải của mình, HLV Klopp tiêu tổng cộng 67,7 triệu euro. Cùng quãng thời gian đó, Dortmund thu 66,89 triệu từ TTCN. Tức là sau khi cân đối, Klopp đã bội chi 810.000 euro trong 5 năm.

Đây là mức lương của Wayne Rooney chỉ trong vòng 1 tháng. 810.000 euro để có 2 chức vô địch Bundesliga liên tiếp và một đội hình có nhiều ngôi sao khiến cả châu Âu thèm muốn - đó là ước mơ của ngay cả HLV Arsene Wenger.

Thương vụ tiêu biểu của Klopp phải kể đến Kagawa: mua với giá 350.000 euro từ Cerezo Osaka, để chỉ 2 năm sau bán với giá 16 triệu euro cho M.U.

Cùng năm đó, ông cũng mua Robert Lewandowski với giá 4,75 triệu. Hiện tiền đạo Ba Lan đang được định giá khoảng 28 triệu euro và có thể sẽ còn cao hơn nếu M.U và Real cùng vào cuộc. Kevin Grosskreutz cũng đã tăng giá 7 lần kể từ khi anh gia nhập Dortmund năm 2009.

TRIẾT LÝ BÓNG ĐÁ CHẲNG KHÁC BARCELONA
Khi mất bóng bên phần sân đối phương, phản xạ của hầu hết các đội bóng là lùi về tổ chức phòng ngự. Nhưng Dortmund làm ngược lại: họ dâng toàn bộ lên để đoạt lại bóng ở đúng nơi vừa mất. Một thứ bóng đá tổng lực đúng nghĩa.

Toàn bộ đội hình Dortmund có vai trò tương đương với trái bóng. Lewandowski, một cầu thủ mà trong quá khứ người ta sẽ gọi là "tiền đạo cắm", đứng trong vòng cấm chờ đồng đội mớm bóng, giờ phải di chuyển liên tục để có bóng: trung bình, Lewandowski có 1 bàn thắng sau khi đã chạy... hơn 15 km. Không hẳn là tiqui-taca, nhưng cũng là khiêu vũ, là hội họa, là nghệ thuật.

Thứ bóng đá duy nhất mà Dortmund biết là tấn công. Và tấn công đẹp mắt. Họ làm điều đó ngay cả trước những đối thủ đáng gờm nhất, và nhận được phần thưởng xứng đáng: thắng Real trên sân nhà và hòa trên thế thắng ngay tại Bernabeu, hạ nhục Ajax tại Amsterdam và "đóng đinh" cho Man City. Tất nhiên, không thể quên màn hạ nhục Bayern Munich 5-2 tháng 5/2012 trong một vũ điệu tàn bạo.

Dortmund cũng đặc biệt chú trọng xây dựng văn hóa CLB, tạo ra ý thức màu cờ sắc áo cho mọi thế hệ như tại Barca: ở đây, sân tập của đội U9 không tách biệt với sân của đội hình 1. "Chúng tôi muốn lũ trẻ nhìn thấy thần tượng của chúng, để hiểu thế nào là thực chất" - GĐĐH Hans Joachim Watzke tiết lộ.

TINH THẦN & SỐ PHẬN TƯƠNG ĐƯƠNG JUVENTUS
Số phận của Juventus và Dortmund không hoàn toàn tương đồng. Nhưng họ đều đã phải trả giá đắt vì những sai lầm trong quá khứ. Juventus bị đánh xuống Serie B vì móc ngoặc tỷ số. Còn Dortmund, họ là CLB đầu tiên của nước Đức lên sàn chứng khoán, kiếm tiền quá dễ và tiêu tiền còn dễ hơn.

Trong những năm sau chức vô địch Champions League 1997, Dortmund rơi vào "vòng tròn diệt vong" của bóng đá châu Âu: họ phải chi rất nhiều tiền duy trì một đội hình mạnh để tìm kiếm thành công ở cúp châu Âu, vì chỉ có thành công mới... nuôi được đội hình đó. Đội bóng Vàng-Đen đã suýt phá sản, và trở thành một kẻ chiếu dưới của Bundesliga trong gần một thập kỷ.

Nhưng họ đã đứng dậy, trở lại đỉnh cao. Bằng ý chí, bằng kỷ luật. Thủ môn Buffon nói rằng tinh thần của Dortmund khiến anh không thể không nghĩ tới Juve. Giống như nhiều cầu thủ từ chối rời Juve sau khi đội này xuống hạng Nhì, Dortmund cũng chứng kiến lòng trung thành đáng ngạc nhiên của các cầu thủ.

"Chúng tôi chỉ có mức lương 4 đến 5 triệu euro/năm, do giới hạn của quỹ lương. Nhưng đây là một phần của nơi chúng tôi thuộc về" - Mario Goetze tuyên bố. Khác với Arsenal, số cầu thủ chọn từ chối những lời mời của các CLB lớn để phục vụ Dortmund cao hơn rất nhiều so với những người chọn ra đi.

Từ Subotic, Hummels, Goetze cho đến Lewandowski, đều từng được liên hệ bởi các CLB lắm tiền nhiều của tại Premiership, nhưng giờ phút này họ vẫn khoác chiếc áo Vàng-Đen.

THỂ LỰC & LỰC LƯỢNG CĐV KHÔNG NGÁN BAYERN MUNICH
Chính xác hơn, phải nói rằng mặc dù mang những phẩm chất của Arsenal, Juventus và Barcelona, Dortmund vẫn là một CLB Đức điển hình (thứ mà Bayern là đại diện). Nước Đức luôn nổi tiếng với những khán đài ken đặc người. Dortmund là số 1 về khoản đó.

Hiện tại, mỗi trận đấu tại Signal Iduna Park có hơn 80.000 người tới dự khán, cao nhất châu Âu. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng nhất, khi phải đá để chống xuống hạng, con số vẫn khiến Serie A và La Liga phải ghen tỵ: 70.000 người/trận. Chính điều đó đã giúp cho họ vượt qua những thử thách để trở lại đỉnh cao.
Nhưng phẩm chất quan trọng nhất mà Dortmund thừa hưởng từ quốc tịch của họ, chỉ một chữ: Khỏe. Vốn từng là một tiền vệ phòng ngự, Klopp hiểu giá trị của thể lực. Nếu tính trong 1,5 mùa giải qua, cả đội hình Dortmund đã chạy một quãng đường bằng từ thành phố Dortmund đến Moscow rồi quay trở lại.

Cứ mỗi phút, hậu vệ Lukasz Piszczek lại chạy 122 mét, và cả mùa anh có thể chạy đến hơn 500 km. Chính điều đó khiến cho họ có thể chơi đôi công với những Man City hay Real Madrid đến tận những phút cuối, thực thi hoàn hảo thứ bóng đá tổng lực mà Juergen Klopp đang theo đuổi.

Và thể lực kinh hoàng này cũng lại đến từ một thứ "rất Đức" khác: khoa học thể thao. Không chi nhiều tiền cho chuyển nhượng, nhưng trung tâm huấn luyện của Dortmund thuộc hàng hiện đại nhất châu Âu. Ở đó, có cỗ máy tự huấn luyện Footbonaut, một siêu phẩm công nghệ phức tạp mà Dortmund sở hữu đầu tiên trên thế giới (ở Premiership và La Liga chưa có cái nào).

Nguồn: Bóng Đá + | Giá trị của Dortmund: Đây mới là đội bóng số 1 châu Âu! | Bong da
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Bí quyết "trường thọ" của Javier Zanetti: Điều độ, trung thành & hậu phương vững chắc

Bí quyết "trường thọ" của Javier Zanetti: Điều độ, trung thành & hậu phương vững chắc

Có thể coi đội trưởng của Inter Milan – Javier Zanetti là một “cổ vật” thuộc loại hiếm ở làng bóng đá. Thường các cầu thủ ngoài 30 là qua thời đỉnh cao, thể lực sa sút. Có nhiều cầu thủ ở tuổi 35 nếu còn thi đấu thì cũng chỉ chơi bóng đá giải trí ở Trung Đông hay thỉnh thoảng vào sân để giữ chỗ nhận lương. Nhưng Zanetti thì khác, ở tuổi 39, anh vẫn giữ vị trí quan trọng trong đội hình Inter và luôn hoạt động mạnh mẽ, hiệu quả như 17 năm trước.
BI626.jpg

Javier Zanetti và gia đình​

BÁC SĨ NÓI GÌ?
Jean-Pierre Meersseman là giám đốc “Milan lab” (bệnh viện thể thao của AC Milan) đã có một nghiên cứu liên quan đến bí quyết trường thọ của các cầu thủ hiện đại. Ông và các cộng sự đã có thống kê và phân tích cầu thủ của các CLB hàng đầu châu Âu (ngoài Milan là Chelsea, Manchester United, Arsenal, Barcelona, Real Madrid, Bayern Munich và Inter Milan).

Dù là người của AC Milan nhưng Meersseman đánh giá Zanetti cao hơn hẳn các cầu thủ lão làng khác hiện giờ vì tần suất hoạt động của anh rất cao. Một chi tiết đắt: Zanetti là cầu thủ đầu tiên của Inter đạt mốc thi đấu 2.000 phút tại Serie A mùa này.
BI500.jpg

Điều này càng đáng chú ý khi cầu thủ người Argentina phải đảm nhận những vị trí thường hoạt động nhiều như hậu vệ phải hay tiền vệ phải chứ không phải một vị trí nhàn hạ như trung vệ hay thủ môn. Khối lượng di chuyển của Zanetti trung bình trong mỗi trận đấu luôn trên 10 cây số và người ta hiếm khi thấy cảnh Zanetti đi bộ trên sân.

Theo Meersseman, đời sống lành mạnh sau sân cỏ là nền tảng xây dựng một Zanetti luôn ổn định trên sân cỏ. Vị bác sĩ người Bỉ này phân tích: “Chuyện ngoài sân cỏ liên quan rất chặt chẽ đến những gì cầu thủ thể hiện trên sân cỏ. Một cầu thủ nếu thức muộn, ngủ không sâu giấc thì sẽ không thể ra sân với thể lực tốt và sự minh mẫn. Những cầu thủ sinh hoạt điều độ ngoài đời thì trên sân, anh ta sẽ dễ chơi đúng sức hơn một cầu thủ vô kỷ luật.

Có thể thấy điều này qua hai hình ảnh của Paolo Maldini và Christian Vieri. Cách đây 10 năm, chúng ta có thể nhìn thấy Vieri mạnh mẽ hơn Maldini do anh trẻ hơn 5 tuổi. Nhưng đến năm 2009, thể lực Vieri xuống rất nhanh và anh ta không đảm bảo thể lực để chơi được tại Serie A.

Nếu những năm trước đó, Vieri điều độ trong sinh hoạt (nhậu nhẹt, yêu đương...) thì “Bò mộng” vẫn có thể chơi bóng đỉnh cao thêm một vài mùa. Năm 2009, Maldini cũng treo giày ở tuổi ngoài 40 nhưng mùa cuối anh ta vẫn ra sân đều đặn và tôi nghĩ Maldini có thể chơi được thêm 2-3 mùa nữa nếu anh ta muốn”.

Maldini, Costacurta và Zanetti là kiểu cầu thủ sống nghiêm túc ngoài đời nên tuổi thọ nghề của họ sẽ cao hơn nhiều so với các đồng nghiệp sống buông thả. Ngoài ra, một cuộc sống gia đình hạnh phúc giúp họ có tâm lý thoải mái, dễ tập trung trong tập luyện và thi đấu. Ngược lại, những cầu thủ có đời sống tình cảm phức tạp thì họ dễ bị phân tán tư tưởng, khó tập trung cho chuyên môn và nguy cơ chấn thương cao hơn.

CHUYÊN GIA NÓI GÌ?
Simon Kuper, cây viết thể thao hàng đầu nước Anh cho rằng lòng trung thành là chìa khóa giúp Zanetti trường thọ trên sân. Từ khi chuyển sang Inter năm 1995 từ Banfield, Zanetti chỉ thi đấu cho đội bóng thành Milan.

Kuper khẳng định, việc gắn bó với một CLB rất có lợi cho Zanetti. Qua một thời gian lâu dài, cơ thể của Zanetti không chỉ quen với môi trường sống tại Milan mà còn thích nghi với chế độ tập luyện và phong cách thi đấu của Inter. Sự thích nghi đó đảm bảo cho Zanetti có thể cống hiến tại Inter tối đa.

Theo Kuper, những cầu thủ trung thành với CLB thường có tuổi thọ nghề cao hơn các đồng nghiệp hay “nhảy việc”. Không chỉ Maldini, Costacurta ở Ý mà tại nước Anh, Paul Scholes hay Ryan Giggs vẫn chạy tốt khi gần sang tuổi 40.

Kuper phân tích: “Tại làng bóng đá châu Âu, nếu chơi bóng một cách nghiêm túc thì chúng ta hiếm thấy các cầu thủ nhảy việc kiểu Vieri có thể “trường thọ”. Sau mỗi lần thay đổi CLB, cầu thủ sẽ phải thay đổi môi trường sống, chế độ tập luyện và thậm chí là phong cách chơi bóng.

Tất nhiên, cơ thể cầu thủ không dễ thích nghi khi bị thay đổi một cách liên tục và anh ta sẽ xuống phong độ hay chính xác hơn là xuống sức rất nhanh. Với một cầu thủ ngoài 30 tuổi, việc thay đổi CLB sẽ là một thử thách lớn, một ác mộng cho cơ thể anh ta”.

Cũng có những cầu thủ nhảy việc và sống khá buông thả như Romario nhưng ngoài 40 mới chịu treo giày. Thậm chí, Romario còn tuyên bố sex là yếu tố quan trọng giúp ông khỏe khoắn để chạy mãi không mệt. Kuper cho rằng Romario trong những năm cuối sự nghiệp đã chơi một thứ bóng đá giải trí để cố đạt được mốc 1.000 bàn thắng.

“Nếu Romario thi đấu tại Serie A cho Inter hay tại Premiership cho M.U thì anh ta khó ghi được bàn như khi chơi cho Miami FC hay Adelaide. Nếu Zanetti rời Inter khi 32, 33 tuổi để chuyển sang chơi cho Chelsea hay Real Madrid thì tôi e anh ta cũng không thể hoạt động tốt như tại Inter lúc này”, Kuper cho biết.

GIA ĐÌNH NÓI GÌ?
Cách đây hơn 1 năm, khi Zanetti sinh nhật lần thứ 38, tờ Clarin đã phỏng vấn cô vợ Paula để hỏi bí quyết nào khiến chồng chị trẻ mãi trên sân. Paula là người bạn đời của Zanetti trong suốt 14 năm qua và nếu tính thời gian yêu nhau thì họ đã có gần 1/4 thế kỷ gắn bó. Paula bật mí những gì chị giúp Zanetti chỉ nằm trong hai từ: “chăm sóc” và “giữ gìn”.

Việc chăm sóc của Paula rất đơn giản nhưng hiệu quả trong từng bữa ăn. Ngay khi sang Ý, Paula đã có sự kết nối với các bác sĩ và đầu bếp của Inter. Paula biết nên nấu cho Zanetti những món gì không chỉ để chồng thấy ngon miệng mà còn đáp ứng lượng calories phù hợp với Zanetti từng ngày.

Còn chuyện “giữ gìn” lại khá tế nhị. Paula không bao giờ “phá sức” của chồng trong những ngày anh chuẩn bị thi đấu hay những lúc trở về với đôi chân mệt nhoài. Về sức khỏe, Paula giúp Zanetti ăn đủ bữa, ngủ đủ giấc. Về tâm lý, Paula luôn khiến Zanetti thoải mái vui vẻ ở nhà. Chính nhờ vậy, anh luôn điềm tĩnh, mạnh mẽ trên sân bóng.

ZANETTI NÓI GÌ?
Zanetti không coi việc mình chơi bóng với cường độ cao ở tuổi 39 là điều gì ghê gớm. Nhưng khi hỏi về bí quyết thì đội trưởng của Inter chỉ đúc kết ở câu: “Tôi may mắn không bị chấn thương dai dẳng nào hành hạ. Do đó tôi có thể duy trì được phong độ và thể lực ổn định”.

Điều Zanetti nói không sai vì chấn thương đã khiến nhiều đồng đội của Zanetti đoản thọ tuổi nghề hay sự nghiệp tụt dốc. Ngoài ra, Zanetti còn khoe: “Đôi chân của tôi luôn chạy tốt hàng tuần là nhờ buổi tối sau mỗi trận đấu, tôi thường ngâm chân vào nước đá. Việc này giúp cơ chân của tôi phục hồi rất nhanh”.

Có thể thấy bí quyết trường thọ của Zanetti ngoài tố chất cơ thể còn nhờ có sự kết hợp của may mắn, điều độ, trung thành và một hậu phương vững chắc. Những điều này nghe thì đơn giản nhưng trong giới cầu thủ ngôi sao, mấy ai có đủ.
thongke.jpg
Năm ngoái, khi kỷ niệm sinh nhật lần thứ 39, Zanetti đã khẳng định: “Tôi dự định chơi bóng đến khi 40 tuổi và tôi nghĩ mình đủ khả năng để thực hiện điều đó”. Nghe câu đó, cựu thủ quân của Inter – Giuseppe Bergomi phán rằng: “Zanetti phải chơi bóng được đến 45 tuổi, thậm chí là 50 nếu cậu ta muốn”.

Nguồn: Bóng Đá + | Bí quyết "trường thọ" của Javier Zanetti: Điều độ, trung thành & hậu phương vững chắc | Bong da
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
SVĐ Zerao trong rừng già Amazon: Sân bóng nằm trên đường xích đạo

SVĐ Zerao trong rừng già Amazon: Sân bóng nằm trên đường xích đạo

Nếu người ta có ý tưởng tổ chức một trận đấu đặc biệt giữa nhà vô địch Nam Mỹ với nhà vô địch CONCACAF, sẽ không có SVĐ nào thích hợp để tổ chức trận đấu ấy hơn là sân Zerao. Đây là sân bóng có một không hai trong làng cầu thế giới: nó nằm ngay trên đường Xích đạo.
a626.jpg

Vạch sơn giữa sân Zerao chính là đường Xích đạo của Trái đất​

SÂN BÓNG KIÊM THIÊN ĐƯỜNG TÌNH DỤC
Zerao - sân nhà của những đội bóng hạng Ba Brazil như Ypiranga Clube, Trem Desportivo Clube, Esporte Clube Macapa... có vạch vôi giữa sân của sân bóng này trùng khớp với đường Xích đạo. Do vậy, mỗi phần sân nằm trên một bán cầu khác nhau. Khán đài cũng được chia đều thành 2 phần, ở bắc bán cầu và nam bán cầu.

SVĐ Zerao này nằm ở thành phố Macapa, thủ phủ của bang Amapa, Brazil. Hãy cứ tưởng tượng: bạn có thể ghi bàn ở cả bắc bán cầu lẫn nam bán cầu trong cùng một trận đấu, hoặc tung cú sút ghi bàn từ nam bán cầu vào khung thành nằm ở bắc bán cầu.

Lúc khánh thành vào năm 1990, sân này có tên là Ayrton Senna, theo tên tay đua F1 huyền thoại của Brazil. Bây giờ, tên chính thức của nó là Milton Correa, theo tên của cố chủ tịch LĐBĐ bang Amapa. Song, Zerao là cái tên nổi tiếng hơn cả. Còn có cái tên nào dễ hiểu, chính xác và thích hợp hơn cho cái sân bóng nằm ở vĩ tuyến zero ấy?

Ý tưởng xây dựng sân bóng ngay tại vĩ tuyến zero như một ấn tượng sâu đậm để người ta nhớ về Amapa của Milton Correa được giới chính khách ủng hộ mạnh mẽ. Sân này được hoàn thành rất nhanh vào năm 1990. Tổng thống Brazil đã dự lễ khánh thành còn huyền thoại Zico thi đấu ở trận “rửa sân”.

Nhưng rồi, ba khán đài còn lại của sân mãi mãi chỉ có trên giấy tờ. Ở khán đài duy nhất đã được xây, bất kể người xem ngồi ở đâu thì tầm nhìn cũng bị che khuất do một trong những dàn đèn được dựng lên ngay sát đường biên dọc, ở vị trí giữa sân, trước mặt khán đài, ngay trên đường Xích đạo.

Hồi chưa xây sân, nơi này chỉ có một dấu hiệu đáng kể: chiếc thềm bê tông dài khoảng 50m để đánh dấu đấy là nơi đường xích đạo của Trái đất đi qua. Ban đêm, nam nữ kéo nhau ra cái thềm bê tông ấy để vui vầy cuộc mây mưa, với sự hứng thú đặc biệt: tận hưởng niềm hoan lạc ngay tại tâm Trái đất.

Các cô gái phải để hai chân ở hai bên bậc thềm thì niềm vui mới được trọn vẹn. Bây giờ, muốn tận hưởng niềm vui ở bậc bê tông bên ngoài sân bóng cũng được, vào đến vạch giữa sân của Zerao thì lại càng hay. Và cách tận hưởng sự hứng thú tuyệt vời nhất đương nhiên là phải chọn ngay thời khắc giao thừa, chuyển giao từ năm cũ sang năm mới, từ nam bán cầu đến bắc bán cầu.

PHẾ TÍCH GIỮA RỪNG GIÀ
Khi trọng tài làm thủ tục bắt đầu trận đấu tại sân Zerao, ông ta không hỏi thủ quân của đội có quyền chọn sân xem anh ta chọn phần sân nào mà hỏi: “Nam bán cầu hay bắc bán cầu?”. Đội may mắn trong thủ tục tung đồng xu luôn chọn phần sân ở bắc bán cầu, bởi gió Đông Bắc ở vùng này khi nào cũng mạnh.

Khi hiệp 1 của trận đấu đã kết thúc mà đội đá ở bắc bán cầu không thắng, người ta mặc nhiên nhận định: đội ấy sẽ thua khi phải bảo vệ cầu môn ở nam bán cầu trong hiệp 2. Gió mạnh đến nỗi đã có không biết bao nhiêu quả bóng bị gió thổi vào khung thành từ quả phạt góc tại sân Zerao.

Sân Zerao ngày càng xuống cấp vì sự lơ là của chính quyền. Hồi khánh thành, sân Zerao thu hút được 10.000 khán giả trong trận đấu rửa sân. Đấy cũng chính là kỷ lục về số lượng khán giả của sân Zerao. Bây giờ, sức chứa tối đa của sân này chỉ còn là 5.000 khán giả.

Bóng đá thì đi lùi, chỉ có cái khoản... mây mưa ở giữa đường xích đạo kia là thật sự phát triển. 20 năm trước, Zerao nằm ở một nơi biệt lập bên ngoài trung tâm thành phố. Bây giờ, dân số của Macapa đã tăng lên, nhà cửa phát triển và Zerao đã lọt thỏm giữa những khu dân cư xung quanh. Các cặp bây giờ chẳng phải rủ nhau “ra ngoại ô” để tìm đến cái nơi trung tâm quả đất nữa.

Nguồn: Bóng Đá + | SVĐ Zerao trong rừng già Amazon: Sân bóng nằm trên đường xích đạo | Bong da
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Huyền thoại George Best: Con ma men trong hình hài siêu sao bóng đá (P1)

Huyền thoại George Best: Con ma men trong hình hài siêu sao bóng đá (P1)

George Best - cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá Bắc Ireland và là cầu thủ đầu tiên trên thế giới làm nên khái niệm siêu sao trong bóng đá đỉnh cao.
BEST_George.jpg

Trên sân cỏ George Best là số 1. Nhưng trên bàn nhậu ông cũng chẳng nhường vị trí số 1 cho bất cứ ai​

ĐỊNH MỆNH MA MEN TỪ BỤNG MẸ
Khi mẹ của George Best qua đời vì nghiện rượu vào năm 1978, báo chí tranh nhau tìm hiểu vì sao bà lại uống rượu như điên để thành nghiện. Đời tư của các thành viên trong gia đình George Best là như thế nào? Họ có chuyện gì buồn bực, phiền muộn?

Bản thân Best khi ấy liệu có nghiện rượu như mẹ ông? Nếu có thì đâu là nguyên nhân chính? Best điên tiết giảng giải cho cánh nhà báo: "Các anh dốt đến thế là cùng. Hoặc giả, các anh không dốt, nhưng cố bới móc mọi chuyện để có bài viết. Tại sao các anh không hiểu một lẽ đơn giản là những người nghiện rượu đều không cần bất cứ nguyên nhân, lý do nào để uống".

Với Best, bi kịch lớn nhất trong đời không phải là chứng nghiện rượu của bản thân ông, càng không phải là cái chết vì rượu mà chính ông thấy trước. Cái chết ấy đã treo lơ lửng trước mặt huyền thoại Best không biết bao nhiêu lần trước khi ông thực sự nhắm mắt vào ngày 25/11/2005.

Ông qua đời, chính xác hơn là qua đời vì rượu, vì cuộc sống xa hoa của một "siêu sao bóng đá đầu tiên" dứt khoát không thể tách rời khỏi rượu. Nhưng hình như, Best nói có lý. Bi kịch lớn nhất của Best là tận mắt thấy người mẹ yêu quý nghiện ngập, chìm dần trong men rượu, không vì bất cứ nguyên nhân gì.
BEST_George2.jpg

Best​

Giống như bất cứ bà mẹ nào khác ở Anh sau Đệ nhị thế chiến, mẹ của Best phải tằn tiện nuôi con - 6 đứa con - giữa muôn vàn khó khăn về vật chất. Xa hoa gì với một cuộc sống thiếu thốn sau chiến tranh. Mẹ ông cứ hễ thấy rượu thì uống. Và đứa con trai nổi tiếng của bà rút cuộc cũng là như vậy.

Khác biệt chỉ là ở chỗ, Best nổi tiếng hơn mẹ. Và sự cám dỗ của rượu đối với George Best cũng được biết đến nhiều hơn. Có lần, Best cùng bạn bè vào một quán bar trên bãi biển ở Mỹ, nhưng họ lại không mang tiền. Khi phát hiện một phụ nữ ngồi gần đấy đi vào toilette, Best lập tức lục giỏ, ăn cắp tiền để đãi bạn bè.

Từ bé đến lớn, luôn là như vậy. Best mà đã thấy chai rượu thì ông không có cách gì cưỡng lại sự hấp dẫn, mời gọi của nó. Thật ra, Best còn nghiện... kẹo nữa. Có hẳn một giai đoạn mà Best cho là hạnh phúc nhất trong đời mình. Sau này, kể cả khi đã là ngôi sao bóng đá nổi tiếng nhất thế giới, Best vẫn không thấy hạnh phúc bằng giai đoạn ấy.

Đấy là lúc mẹ ông làm việc trong một hãng sản xuất kẹo và trong nhà không bao giờ thiếu kẹo. Nhưng một ngôi sao bóng đá thích ăn kẹo thì chẳng bao giờ là đề tài hấp dẫn báo chí. Kẹo không hấp dẫn bằng rượu và phụ nữ!

ÔNG TỔ CỦA NGÀNH "CELEBRITY"
George Best sinh năm 1946 tại Belfast. Khi ông cùng đồng đội ở CLB Manchester United đánh bại Benfica của huyền thoại Eusebio để lên ngôi vô địch Cúp C1 năm 1968, thế giới từ lâu đã được biết đến Pele, Garrincha, Bobby Charlton, Eusebio...

Trước Best là Ferenc Puskas, Alfredo di Stefano, Raymond Kopa, còn sau đó, Franz Beckenbauer và Johan Cruyff cũng nhanh chóng vươn lên đỉnh cao. Thật ra, người ta đã biết đến Beckenbauer từ trận chung kết World Cup 1966, chứ không đợi đến lúc "Hoàng đế" khẳng định chiếc ngai của mình bằng những ngôi vô địch EURO và World Cup liên tiếp vào đầu thập niên 1970.

Nói vậy để thấy, bóng đá quốc tế trong thời của Best tràn ngập những ngôi sao lớn. Và xem ra, Best thiệt thòi so với tất cả vì ông chỉ được khoác áo ĐT Bắc Ireland quá nhỏ bé. Thế nhưng, Best lại được xem là "siêu sao" đầu tiên trong lịch sử bóng đá.

Ngày nay khi người ta soi mói xem Cristiano Ronaldo tắm biển với người đẹp nào hoặc Lionel Messi ký được bao nhiêu hợp đồng quảng cáo, những điều như thế đã vây quanh George Best, ở cái thời kỳ mà bóng đá chuyên nghiệp hãy còn chìm trong tăm tối, các cầu thủ nổi tiếng đôi khi còn được chuyển nhượng với giá... 11 đôi giày hoặc vài bộ trang phục.

Quả thật, Best là hình tượng "celebrity" đầu tiên trong bóng đá đỉnh cao, là ngôi sao bóng đá đầu tiên luôn bị báo giới rình rập xem ông hẹn hò với ai, xem phim gì, vào khách sạn nào. Người ta gọi Best là "chàng Beatles thứ 5" (thập niên 1960 là thời kỳ rực rỡ của The Beatles gồm 4 thành viên).

Best quảng cáo cho đủ mọi sản phẩm trên đời, từ dao cạo râu đến... giày phụ nữ. Trong số những người tình của Best, có ít nhất 2 hoa hậu thế giới. Những mối tình thoáng qua thì không cách gì kể xiết. Như đã nêu trên, ĐT Bắc Ireland của Best quá yếu nên ông chưa bao giờ có dịp tham dự World Cup hoặc EURO.

Toàn bộ giá trị chuyên môn của Best do vậy chỉ gắn liền với Man United, trong thời kỳ mà CLB này không hề thống trị bóng đá Anh như hiện nay (M.U chỉ có 2 lần VĐQG từ 1957 đến 1993). Thế nên, những đề tài ngoài chuyên môn về George Best còn hấp dẫn hơn, lôi cuốn độc giả nhiều hơn những gì người ta viết về ông trên sân cỏ.

THIÊN TÀI BÓNG ĐÁ KIÊM THẦN NHẬU
Nhưng tất nhiên, không thể phủ nhận tài năng bóng đá của Best. Biệt tài đi bóng của ông là độc nhất vô nhị, ở nơi chỉ nổi tiếng với thứ bóng đá "chạy và sút". Best có khả năng giữ thăng bằng một cách kỳ lạ, đến mức không thể lý giải.

Ông có kỹ thuật điêu luyện ở cả hai chân, thường ghi các bàn thắng đẹp sau khi lừa qua hậu vệ. Ông là cầu thủ góp công lớn nhất giúp M.U trở thành CLB Anh đầu tiên đăng quang ở Cúp C1, và thành tích đoạt Cúp C1 1968 của M.U lập tức đi vào huyền thoại vì nó diễn ra đúng 10 năm sau khi đội bóng nổi tiếng này bị tàn phá bởi tai nạn hàng không năm 1958 ở Munich.

Vài tháng sau khi M.U đăng quang lịch sử ở Cúp C1, Best trở thành cầu thủ duy nhất trong lịch sử bóng đá Bắc Ireland được trao "Quả bóng vàng châu Âu". Bại tướng của Best trong Top 10 khi ấy gồm toàn những huyền thoại: Bobby Charlton, Eusebio, Franz Beckenbauer, Luigi Riva, Giacinto Facchetti, Gianni Rivera, Jimmy Greaves...

Khi ấy, Best đã... nghiện rượu? Xin thưa là có! Giống như huyền thoại Garrincha của bóng đá Brazil, Best vừa uống rượu, vừa thống trị trên sân cỏ, cứ như đấy là những điều không liên quan gì đến nhau. Một mặt là do thể lực của Best quá dồi dào ở tuổi đôi mươi.

Mặt khác, tuy uống rượu nhưng Best rất siêng tập. Ông luôn là người rời sân cuối cùng và dù chỉ là ở trên sân tập, Best vẫn tập trung tinh thần, chơi bóng một cách nghiêm túc hơn bất cứ cầu thủ nào khác. Không bao giờ có chuyện Best đến sân trong tình trạng chuếnh choáng hoặc quên đem theo giày như các bài báo lá cải.

Sau khi trận đấu kết thúc, tất cả lại là chuyện khác. Khi ấy, Best lại là ngôi sao xuất sắc nhất trên bàn nhậu. Cứ như cái họ của ông đã định sẵn mọi chuyện: trong lĩnh vực nào, Best cũng là nhất, một cách tuyệt đối!

VÀI NÉT VỀ GEORGE BEST
Tên đầy đủ: George Best
Nơi sinh: Belfast, Bắc Ailen
Năm sinh: 1946
Năm mất: 2005 (59 tuổi)
Vị trí: Tiền vệ, tiền đạo cánh
CLB: Man United (Anh)

Nguồn: Bóng Đá + | Huyền thoại George Best: Con ma men trong hình hài siêu sao bóng đá (P1) | Bong da
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
George Best: Gã đào hoa và những cuộc tình sét đánh

George Best: Gã đào hoa và những cuộc tình sét đánh

Hàng chục năm sau khi qua đời, vua nhạc Rock & Roll, Elvis Presley vẫn hái ra tiền. Thật ra, nói thế cho sốc, chứ câu chuyện không có gì lạ trong khía cạnh kinh doanh. Chuyện lạ chỉ là: sau khi George Best qua đời, báo chí vẫn đều đặn phát hiện thêm những người đẹp "mới" mà ông từng cặp kè lúc sinh thời, nhưng trước đây không ai biết, còn bản thân ông cũng không thể nhớ.
best.jpg

Best không bao giờ thiếu bóng hồng vây quanh​

NIỀM AO ƯỚC CỦA PHỤ NỮ THẬP NIÊN 1960 - 1980
Những bức ảnh mới, lần đầu công bố. Những câu chuyện giật gân thuộc loại "bây giờ mới kể". Những bí mật mới được "bật mí"... Cứ thế, thi thoảng lại xuất hiện "sự kiện mới" trong hơn 7 năm kể từ khi George Best qua đời (2005). Càng không thể thiếu những chuyện như vậy trên mặt báo vào các ngày 25/11 hoặc 3/12 hàng năm (ngày sinh của Best và ngày ông qua đời).

Từ khi còn là một cầu thủ trẻ của M.U, mới 16 tuổi, Best tỏ rõ khả năng thu hút phụ nữ, chinh phục một cô gái trẻ làm việc ở lò bánh mì địa phương. Thế rồi, người ta thống nhất một cách tuyệt đối: chắc chắn đã có đến hàng ngàn người đẹp từng lên giường với Best.

Tài năng tuyệt luân trên sân cỏ, thôi thì miễn bàn. Nhưng Best còn có vẻ ngoài điển trai, phong thái của một siêu sao nhạc pop, và một "ma lực" mà phụ nữ trong các thập niên 1960 - 1980 rất khó cưỡng lại.

Như đã nói ở phần trước, Best là "celebrity" đầu tiên trong thế giới bóng đá. Ông quảng cáo cho mọi sản phẩm, từ nước trái cây đến... đồ lót phụ nữ. Tin, bài về Best xuất hiện không chỉ trên trang bóng đá hoặc trang thể thao, mà còn ở các mục thời trang, điện ảnh, tin thời sự.
best2.jpg

Best luôn được rất nhiều người đẹp vây quanh​

Trên hết, cuộc sống tình cảm của Best vừa phong lưu, vừa lãng mạn, mà trong đó không ai có thể chỉ ra bất cứ chỗ nào thiếu chân thật hoặc mang tính vụ lợi. Dù là Hoa hậu Thế giới, thôn nữ, hay một sinh viên không được biết đến, Best đều cư xử như nhau: luôn hết lòng, nồng cháy, và tất nhiên là chẳng bao giờ Best toan tính đến "ngày mai" của những cuộc tình như vậy. Phụ nữ có hoặc chưa có chồng đều ao ước được "ở" với Best - ít ra là trong mộng!

BẢN HỢP ĐỒNG 500 BẢNG
Tất nhiên, trong số hàng ngàn phụ nữ từng liên quan đến Best, có những cái tên nổi tiếng hơn những cái tên khác. Họ, và những câu chuyện của họ, khác nhau chỗ nào, thì thật ra Best không bao giờ xem trọng. Với ông, những người đẹp... đều đẹp, thế thôi!

Có lần, Best và M.U sang Đan Mạch tập huấn trước mùa bóng mới. Ông tỏ ra choáng ngợp trước một cô tóc vàng, đã có hôn phu, tình cờ gặp ở quán bar. Về nước, Best kể lại ấn tượng về người đẹp ấy với một phóng viên. Phóng viên nọ đăng luôn quảng cáo trên báo chí Đan Mạch để tìm cách liên hệ với người đẹp tóc vàng.

Rút cuộc, người đẹp ấy không chỉ đồng ý cho nhà báo gặp gỡ, mà còn sang Anh tìm Best để chung sống. Cuộc tình chỉ diễn ra ngắn ngủi. Người đẹp có tên là Eva Haraldsted ấy rút cuộc đã tố cáo Best "không tôn trọng hợp đồng", thắng kiện 500 bảng, và trở về Đan Mạch.

Họ thỏa thuận với nhau những gì, đến nỗi Best phải thua kiện, chuốc lấy tội danh "không tôn trọng hợp đồng" và phải bồi thường thiệt hại? Ông không nhớ. Với ông, tình yêu, kể cả loại "yêu qua đường", không phải là những cú áp phe mà người ta phải thỏa thuận với nhau về các điều khoản. Ừ thì nộp phạt!
best3.jpg

Hoa hậu thế giới 1973 Marjorie Wallace​

HOA HẬU THÌ CŨNG THẾ THÔI
Marjorie Wallace có lẽ là cái tên nổi tiếng nhất trong số những người đẹp từng liên quan đến cuộc đời Best. Và kỷ niệm của Best với Wallace rút cuộc cũng kết thúc nhanh chóng, chủ yếu vì với Best thì không bao giờ có những cuộc tình vụ lợi.

Năm 1973, Wallace đi vào lịch sử với tư cách Hoa hậu Mỹ đầu tiên đăng quang ở giải Hoa hậu Thế giới. 1 năm sau, Wallace sang Manchester du lịch. Tất nhiên một Hoa hậu thì không bao giờ chỉ có mục đích du lịch khi đi du lịch.

Phái đoàn của Marjorie Wallace liên hệ các nơi xem Manchester có những điểm đến hấp dẫn nào, và người ta hỏi Best. Ông đáp tỉnh bơ: "Thực lòng mà nói, tôi thấy Manchester chẳng có chỗ nào đáng để giải trí". Khác biệt chỉ là ở chỗ, có nơi ra vào tự do, có nơi độc quyền, có nơi chỉ tiếp khách có thẻ thành viên, hoặc có nơi thường được những người nổi tiếng ghé qua.

Best giới thiệu một vài CLB mà ông và bạn bè hay lui tới. Người đại diện của Wallace chọn một địa điểm, rồi cho biết thêm: "Nơi nào được Hoa hậu Wallace ghé chơi dù chỉ vài phút đều phải trả tiền. Đấy là vấn đề kinh doanh thuần túy. Giá thông lệ là 150 bảng".

Best cười xòa: "Thế ư? Tôi thì chỉ biết, người ta phải trả tiền khi đến chơi ở CLB của tôi. Nhưng vì đây là Hoa hậu, cô ta sẽ là khách mời của tôi và không phải trả tiền. Tôi thành thật, và chính thức, có lời mời. Đến hay không là việc của Hoa hậu ấy".

Khi người đại diện của Marjorie Wallace còn đang mải mê phân tích tình huống để khẳng định việc "chủ nhà phải trả tiền cho Hoa hậu", thì Best đã cúp máy từ lâu. Sau này, ông kể: "Tôi đâu có thiếu 150 bảng. Tôi sẵn sàng trả một số tiền như thế chỉ để thoát khỏi những ống kính đầy soi mói của cánh nhà báo, để cùng bạn bè tận hưởng những cuộc vui riêng tư. Nhưng tôi không trả tiền để được làm quen với nhân vật nổi tiếng nào".

Cần nhớ: đấy là lúc George Best đã chia tay M.U và những năm tháng ngự trị bóng đá đỉnh cao của ông đã trôi qua từ lâu. Rút cuộc, Marjorie Wallace cũng chấp nhận đến thăm CLB "của Best và bạn bè" một cách miễn phí. Và chỉ trong thoáng chốc, Hoa hậu Mỹ kiêm Hoa hậu Thế giới đã trúng tiếng sét ái tình của "ngôi sao bóng đá hết thời" George Best. Wallace để lại số điện thoại trong địa chỉ tiếp theo của cô, tại London. Và cuộc tình Best - Wallace bắt đầu.

Ở thời điểm ấy, Best là cầu thủ tự do, không chịu bất cứ ràng buộc nào nên ông đi đâu tùy ý. Không như phái đoàn tùy tùng của Hoa hậu, luôn có lịch trình và kế hoạch chặt chẽ trong mọi chuyện, Best làm Wallace ngạc nhiên khi họ gặp nhau ở London, bởi chi tiết Best chỉ có mỗi chiếc va-ly nhỏ, đi một mình, và không hề biết trước ông sẽ ở khách sạn nào.

Thế rồi, khi đã thật sự thân thiết, Wallace lại càng ngạc nhiên khi Best không hề phủ nhận bất kỳ mối quan hệ nào với những người đẹp mà ông từng quen, nổi tiếng hoặc không nổi tiếng. Best không quá xem trọng việc ông cặp được với người đẹp nào, khác hẳn việc Wallace luôn chăm chú theo dõi xem báo chí viết gì về mối quan hệ giữa mình với các ngôi sao thời ấy: ca sỹ Tom Jones, tay đua mô tô Peter Revson hoặc ngôi sao quần vợt Jimmy Connors...

Những câu nói "để đời" của George Best, liên quan đến những người đẹp:
- "Đã có lúc, tôi đoạn tuyệt với rượu và phụ nữ. Đó là vào năm 1969. Và đó là 20 phút tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi".
- "Báo chí viết rằng tôi từng ngủ với 7 Hoa hậu Thế giới. Bịa đặt đến thế là cùng. Sự thật, chỉ có 4 cô. Còn 3 cô kia, tôi không hề gặp".
- "Người ta bảo Paul Gascoigne là George Best mới. Khi nào anh ta hẹn hò được với 3 cô Hoa hậu trở lên thì hãy nói chuyện".
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Huyền thoại George Best (kỳ 3): Tên trộm, gã côn đồ và hậu quả của đời ong bướm

Huyền thoại George Best (kỳ 3): Tên trộm, gã côn đồ và hậu quả của đời ong bướm

Khi George Best qua đời vào năm 2005, ít nhất có 4 người đẹp là vợ, vợ cũ hoặc bạn gái của ông chính thức tham gia tang lễ. Còn khi Best đang là "siêu sao bóng đá đầu tiên", không ai có thể biết hoặc thống kê cho hết những người đẹp mà ông hẹn hò. Nhưng có một chi tiết rõ ràng, xuyên suốt trong các cuộc tình, dù là thoáng qua hay đình đám của Best, mối nào cũng trắc trở. Có lẽ cũng phải như vậy, vì họ đâu có đến với nhau bằng tình yêu thật sự.
GeorgeBest.jpg

BỊ NGƯỜI TÌNH TỐ CÁO TỘI... ĂN CẮP
Như đã nói ở kỳ trước, khi giới đại diện sắp xếp để hoa hậu thế giới Marjorie Wallace gặp Best trong chuyến sang Anh du lịch, họ còn mặc cả với nhau xem ai phải trả tiền cho ai (còn sau đó, khi Wallace và Best lao vào nhau, thì đấy lại là chuyện khác).

Cuộc tình của Best với hoa hậu Wallace nổi tiếng không chỉ ở chỗ trai tài gái sắc, mà còn vì đấy là cuộc tình ầm ĩ nhất, đình đám nhất, kịch tính cũng tăng đến mức cao nhất. Đoạn kết, cảnh sát ập vào bắt ngôi sao Best vì lời tố cáo ăn cắp, của chính Wallace.

Có lần, Best cảm thấy không vui khi Wallace nhận điện thoại và nói những lời yêu đương với người khác ngay khi đang nằm cạnh Best, trong một khách sạn ở London. Best nổi cáu: "Em không có được một chút lịch sự tối thiểu là nói lời xin lỗi và hẹn sẽ gọi lại sau?". Hoa hậu chỉ cười khẩy: "Anh đang nghĩ mình là ai thế?".

Họ gây gổ, và cùng đuổi nhau ra khỏi phòng. Cuối cùng, người phải "cút đi" là Wallace. Mới sáng sớm, Best đã thức giấc và chợt thấy qua cửa sổ chiếc Rolls Royce của hoa hậu đang đậu phía dưới. Người đẹp quyết định trở lại và xin lỗi Best? Ảo tưởng! Marjorie Wallace quả đã trở lại, nhưng cùng đi với cảnh sát.

Ngôi sao bóng đá nổi tiếng nhất nước Anh bị Hoa hậu thế giới tố cáo tội ăn cắp hành lý. Còn gì tuyệt vời hơn, cho các tờ báo lá cải? Chuyện đi thưa cảnh sát là có thật, còn nội dung tố cáo dĩ nhiên là sai trái. Best được phép gọi điện cho luật sư trước khi về đồn cảnh sát. Ông bị tạm giữ 6 giờ.

Dù luật sư đã dặn trước là không nên hé miệng, Best vẫn tự tin trả lời mọi câu hỏi của các điều tra viên. Đại khái, ông thừa nhận mọi chi tiết như gặp Wallace lúc nào, ở đâu, đi xem phim gì, sau đó ăn uống ở đâu, vào khách sạn khi nào... Chỉ có chuyện ăn cắp va ly của Wallace là hoàn toàn không có. Như bao vụ cố ý gây scandal khác, vụ này rút cuộc cũng chìm xuồng khi Best tự do bước ra khỏi đồn và cảnh sát xác nhận là ông vô tội.
GeorgeBest2.jpg

Dù sống với Best 9 năm nhưng Alex Pursey chỉ nhận được cay đắng​

HUYỀN THOẠI NHIỀU LẦN ỐM ĐÒN
Sau này vẫn vậy. Chỉ vài tháng trước khi qua đời, dù đã là một con bệnh vô phương cứu chữa, Best vẫn bị tố cáo là hành hung một bé gái 13 tuổi, vẫn phải trả lời các điều tra viên trước khi được thừa nhận là vô tội.

Cũng trong khoảng thời gian ấy, Best bị tạm giữ ở đồn cảnh sát sau một cuộc ẩu đả với người đẹp cuối cùng trong cuộc đời ông, Ros Hollidge. Và khi vụ ẩu đả giữa Hollidge với Best còn chưa ngã ngũ, ông lại bị bồ cũ Devivo Gina tố cáo về chuyện hành hung...

Khó mà kể xiết, Best đã có bao nhiều lần đến đồn cảnh sát. Và tất nhiên, đa số đều là những lời tố cáo không căn cứ. Dù sao đi nữa, chuyện ẩu đả giữa Best với người bạn gái cuối cùng, Ros Hollidge, là có thật. Trớ trêu ở chỗ, Best là nạn nhân, chứ không phải hung thủ.

Cũng dễ hiểu, giữa người đẹp Hollidge tràn đầy sinh lực ở tuổi 37 và một George Best đã 59 tuổi, đang gần đất xa trời vì bệnh hoạn (ông sẽ qua đời ngay sau đó), thì... ai đánh ai? Báo chí Anh từng đưa tin: George Best chấp nhận trở lại sống chung với người phụ nữ đã tẩn mình!

Cũng vậy, khi cảnh sát tiếp nhận hồ sơ về bạo lực, có liên quan đến Best và người đẹp Revivo (34 tuổi), thiên hạ tỏ ra ngạc nhiên khi Best đứng ở vị trí bị cáo chứ không phải nạn nhân. Gan đã phải thay, cơ thể đã bị "ngâm cồn" suốt 40 năm, răng rụng gần hết, tay chân bạc nhược, Best hành hung người khác thế nào được!

Sự thật là trong những năm tháng cuối đời, Best đã nhiều lần phải ốm đòn, bên cạnh những lần ốm... thật, phải nhập viện. Có lúc, ông bị Hollidge tống ra khỏi nhà sau một màn ẩu đả, và trở thành vô gia cư. Chỉ đến khi Hollidge đồng ý, Best mới được quay về.

CŨNG LÀ NHÂN - QUẢ
Khi Best còn ở đỉnh cao phong độ thì ngược lại, người đẹp nào muốn đến với ông để trở nên nổi tiếng đều phải chịu thiệt thòi. Vợ cũ của ông, Angie James, sau này thú nhận: 8 năm chung sống trong gia đình Best là một địa ngục. Bà phải chịu đựng sự cô đơn khi Best chỉ biết lao từ cuộc vui này sang cuộc vui khác, phải một mình chăm sóc con, lại còn thỉnh thoảng hứng lấy những tràng thóa mạ, mắng mỏ khi không làm Best hài lòng.
Cuộc hôn nhân kéo dài 8 năm của Angie kết thúc vào năm 1986, như một sự giải thoát. Bà cũng đã khóc khi Best qua đời. Nhưng những giọt nước mắt thật sự của buồn tủi, của nhục nhã, thì Angie đã khóc đến kỳ hết từ hàng chục năm trước đó.

Angie kể: "Khi con trai chúng tôi là Colum Best đã khôn lớn và tôi đưa nó sang Anh để gặp cha ruột, tôi thật sự bàng hoàng không nhận ra được Best như ngày xưa nữa. Mãnh hổ bỗng trở thành mèo".

Best còn có một người vợ chính thức khác là Alex Pursey, và cuộc hôn nhân của người đẹp này cũng chẳng khác gì bà vợ cả Angie. Alex nói giống hệt Angie khi Best qua đời: "Vì sao tôi không khóc ư? Tôi đã khóc hết nước mắt từ lâu rồi. Các thành viên trong gia đình Best luôn ném cho tôi những cái nhìn khinh miệt. Cuộc hôn nhân (9 năm) của tôi chỉ gồm cay đắng chứ không có chút hạnh phúc".

Ngay từ cuộc tình đầu tiên mà Best làm cho báo giới phải tốn giấy mực, với cô sinh viên Đan Mạch Eva Harasted vốn chịu bỏ nhà sang Anh chỉ để tìm kiếm ngôi sao, Best rút cuộc cũng phải ra tòa nộp phạt vì tội không tuân thủ hợp đồng!

Các diễn viên Annette Andre hoặc Sinead Cusack thì đành chia tay George Best vì ghen. Ghen nhau đã đành, họ còn không thể yên tâm khi Best hẹn hò với họ nhưng lại quả quyết phải tìm cách cưa cho bằng được minh tinh Brigitte Bardot! Với diễn viên Susan George thì Best bị chê là không rành rẽ những "kỹ năng yêu". Cứ thế, cơ man những cuộc tình "qua đường" nối tiếp nhau trong cuộc đời Best, mối nào cũng nhanh chóng kết thúc vì những trắc trở.

DANH SÁCH NHỮNG NHÂN TÌNH ĐÁNG CHÚ Ý
- 1969: Sinh viên Đan Mạch Eva Harasted.
- 1969: Diễn viên Barbara Windsor.
- 1970: Ca sỹ Lynsey de Paul và các diễn viên Annette Andre, Sinead Cusack.
- 1970: Sinh viên Thụy Điển Siv Hederby.
- 1970-1972: Cựu hoa hậu vương quốc Anh Carolyn Moore.
- 1973: Hoa hậu Mỹ và thế giới Marjorie Wallace.
- Suốt thập niên 1970: Diễn viên Susan George.
- 1976-1982: Người mẫu Angie James. Kết hôn vào năm 1978 và có một con trai, Calum Best, chào đời năm 1981.
- 1983: Cựu hoa hậu Thụy Điển và thế giới Mary Stavin.
- 1985: Người mẫu Angie Lynn.
- 1986: Người mẫu quảng cáo cho hãng sữa Lotta Bottle, Jude Dennis.
- 1995-2004: Tiếp viên hàng không Alex Pursey. Kết hôn rồi ly dị.
- 2003-2005: Người đẹp Gina Devivo.
- 2004: Người đẹp Lisa Pesch.
- 2004: Ros Hollidge.
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Gspon, bóng đá trên “đỉnh” châu Âu

Gspon, bóng đá trên “đỉnh” châu Âu

Một đội bóng “đỉnh cao” thực sự, theo đúng nghĩa đen của từ này. Ở độ cao 2.000 mét so với mặt nước biển, bạn cần thêm mặt nạ dưỡng khí nếu muốn tới thăm FC Gspon, đội bóng có sân đấu nằm trên độ cao “khủng” nhất châu Âu.
SAN626.jpg

“Tôi thường xem Champions League và thầm mong mình góp mặt trong những SVĐ lớn như vậy. Nhưng khi tôi đi cáp treo lên SVĐ của chúng tôi, trên một ngọn núi cao 2.000 mét và có thể thu cả thế giới vào tầm mắt, tôi lại nghĩ khác. Tôi vẫn muốn chơi ở đây, với 70 khán giả, hơn là tại Bernabeu trước 70.000 người”, tiền đạo Lukas Furrer tự hào về đội bóng kỳ lạ của mình.

Ngôi làng nhỏ Gspon nằm ở độ cao 2.000 mét trên thung lũng Saastal thuộc dãy núi Alps, ở bang Valais (Thụy Sỹ). Đội bóng của làng (FC Gspon) có một SVĐ vô cùng đặc biệt không chỉ bởi cái tên... Ottmar Hitzfeld Stadium. Ottmar Hitzfeld nằm cheo leo ngay miệng vực, sử dụng mặt cỏ nhân tạo (cỏ tự nhiên không thể sống trên độ cao 2.000 mét) và diện tích sân cũng chỉ bằng 3/4 sân bóng tiêu chuẩn do thiếu mặt bằng.
gspon3.jpg

Do dân số Gspon quá ít (chưa tới trăm người), các cầu thủ của FC Gspon phần lớn được tuyển từ làng Staldenried ở phía dưới hàng trăm mét. Mỗi lần thi đấu Furrer và các đồng đội lại phải đi cáp treo để lên đỉnh... Ottmar Hitzfeld.

FC Gspon vừa cán đích thứ ba ở giải vô địch các đội bóng làng mùa này, còn năm ngoái họ đoạt chức vô địch. Nguyên nhân dẫn đến thành công nằm ở độ cao... 2.000 mét. “Các đội khách tới đây đều thi đấu trong trạng thái khó thở do thiếu oxy. Chúng tôi có lẽ là đội mạnh nhất thế giới trên sân nhà”, Furrer hóm hỉnh cho biết.
726097_458_gspon_hitzfeld_web.jpg

HLV Ottmar Hitzfeld trực tiếp có mặt dự lễ khánh thành sân​

FC Gspon từng được chủ tịch FIFA Sepp Blatter, người sinh ra ở ngôi làng bên cạnh Visp, tặng một quả bóng lưu niệm. Nhưng với Gspon bao nhiêu bóng cũng chưa đủ. Trung bình mỗi trận họ làm mất từ 7 tới 10 trái bóng vì... rơi xuống vực.

Sân bóng nào có độ cao “khủng” nhất thế giới?
Đó là sân Hernando Siles ở La Paz, Bolivia. SVĐ được đặt tên theo vị Tổng thống thứ 31 của quốc gia này nằm ở độ cao 3.637 mét so với mực nước biển. Hernando Siles có sức chứa 40.000 khán giả và là sân nhà của 3 CLB Club Bolivar, The Strongest và La Paz FC. Theo luật FIFA, những SVĐ có độ cao từ 2.500 mét tới 3.000 mét bị cấm tổ chức các trận đấu. Tuy nhiên trước phản ứng dữ dội từ chính phủ Bolivia, sân Hernando Siles đã được FIFA cấp phép “miễn trừ đặc biệt” với lệnh cấm này.

Nguồn: Bóng Đá + | Gspon, bóng đá trên “đỉnh” châu Âu | Bong da
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Huyền thoại George Best (Kỳ cuối): Sinh bất phùng thời nhưng Best vẫn là nhất

Huyền thoại George Best (Kỳ cuối): Sinh bất phùng thời nhưng Best vẫn là nhất

Người ta vẫn cho rằng số 7 là chiếc áo thiêng liêng nhất tại sân Old Trafford, có một ý nghĩa lớn đến mức có thể trở thành sức nặng khiến các ngôi sao trẻ không dám nhận áo số 7. Nhưng George Best còn huyền thoại hóa mọi áo đấu ông mặc. Bị rao bán với giá “trên trời” 300 nghìn bảng, tuyên bố giải nghệ để tránh bị báo giới làm phiền ở tuổi 26, đáng lẽ ra, Best sẽ còn lừng danh và tột đỉnh vinh hoa hơn nữa nếu sinh muộn khoảng 10 năm.
SINH626.jpg

George Best luôn là nhất trong lịch sử M.U​

CHỦ NHÂN CỦA... 5 SỐ ÁO HUYỀN THOẠI
Khi siêu sao David Beckham đạt đến đỉnh cao phong độ dưới màu áo M.U, anh được xếp vào hàng ngũ “những số 7 huyền thoại tại Old Trafford”, sánh vai với Cantona, Bryan Robson và George Best. Nhưng thực ra, Best còn đạt mức “huyền thoại” hơn cả thế...

Có phải George Best chính là siêu sao mở ra huyền thoại về chiếc áo số 7 tại sân Old Trafford? Không hề! Rất nhiều cây bút chuyên tung hô các siêu sao bóng đá trong kỷ nguyên hiện đại đã nhầm lẫn rất lớn khi bàn về chiếc áo số 7 của Best, lại càng sai lầm khi kết nối Best với những Cantona hoặc Beckham sau này.

Sự thật, Best chỉ mặc áo số 7 trong giai đoạn 1966-1968. Đấy là thời kỳ mà M.U phát áo cho cầu thủ theo vị trí trên sân, chứ không phát áo cố định cho từng cầu thủ như bây giờ. Khi chơi ở vị trí tiền vệ phải, Best khoác áo số 7. Còn khi là tiền vệ trái, Best khoác áo số 11.

Trong các mùa 1963/64 hoặc 1971/72, Best chủ yếu chơi ở cánh trái, giống như Ryan Giggs sau này. Cũng có rất nhiều lần Best chơi dịch vào phía trong và mặc áo số 8 (mùa 1970/71 là tiêu biểu nhất). Lại có lúc ông khoác áo số 10.

Cầu thủ số 8 giữ vai trò hữu nội trong đội hình ngày xưa, chơi ở vị trí phía trong so với cầu thủ chạy cánh phải, thấp hơn trung phong nhưng cao hơn cầu thủ đá cánh. Tương tự, cầu thủ số 10 là tả nội, vai trò và vị trí giống như hữu nội nhưng đứng ở phần sân bên kia.
SINH500.jpg

Best thậm chí từng khoác áo số 9 và đá trung phong, trong những lúc Bobby Charlton chấn thương. Và chưa bao giờ Best ra sân trong chiếc áo số 9 mà lại không ghi bàn cho M.U!

Tóm lại, Best từng chơi ở mọi vị trí trong hàng công M.U, từ biên phải sang biên trái, từ tiền vệ lên tiền đạo. Ông chạy cánh hoặc chơi ở phía trong đều được. Từ vị trí số 7 đến vị trí số 11, Best đều thành công như nhau, trong những vai trò rất khác nhau về mặt chuyên môn.

BI KỊCH VÌ TỎA SÁNG... QUÁ SỚM
Khi M.U thắng Benfica ở chung kết Cúp C1 1968, báo chí gọi đấy là chiến thắng huyền thoại vì rất nhiều lý do, đặc biệt là nó diễn ra đúng 10 năm sau tai họa hàng không 1958 (cướp đi hầu như toàn bộ mạng sống lực lượng M.U ở Munich).

Người ta ca ngợi Bobby Charlton - ngôi sao đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần ở Munich rồi trở thành nhà vô địch World Cup 1966. Người ta ca ngợi HLV Matt Busby về kỳ công tái thiết, vực dậy M.U. Người ta ca ngợi Denis Law... Nhưng trên thực tế, ngôi sao sáng nhất của M.U khi ấy chỉ có thể là George Best.

Ông góp công lớn nhất giúp M.U trở thành CLB Anh đầu tiên lên ngôi vô địch châu Âu. Ông làm cho huyền thoại Eusebio phải ngả mũ kính phục. Eusebio? Đấy là ngôi sao bóng đá vĩ đại nhất châu Âu kể từ sau thời kỳ của Alfredo di Stefano.

Sau Eusebio, và cho đến trước thời kỳ của Michel Platini, chỉ có 2 siêu sao khác vươn được lên đến hàng ngũ tượng đài của bóng đá châu Âu - đó là Johan Cruyff và Franz Beckenbauer. Và cả Cruyff lẫn Beckenbauer đều chỉ vươn lên sau thời đỉnh cao của Best.

Nói tóm lại, số ngôi sao bóng đá sánh được với Best suốt hàng chục năm tính đến lúc ông tỏa sáng thật sự là không nhiều, hơn được ông thì chỉ có vài người. Đến đây, chúng ta hãy nhìn sang góc độ bi kịch, khi George Best tỏa sáng... quá sớm.

Năm 1972, George Best tuyên bố giải nghệ, dù ông mới 26 tuổi. Ở thời điểm ấy, Ajax Amsterdam đã vô địch Cúp C1, nhưng chưa ai xem đấy là một huyền thoại. Cruyff khi ấy cũng chưa thật sự khẳng định chỗ đứng trong lịch sử. Quyền lực của Bayern Munich và Beckenbauer thì chỉ được xác định vài năm sau đó.

Chẳng ai thấy sốc khi báo chí đưa tin ngôi sao George Best tuyên bố giải nghệ. M.U còn xem đấy là hành động vô kỷ luật, đưa Best vào danh sách cầu thủ cần bán với giá 300.000 bảng. Chẳng có CLB nào quan tâm đến mức giá bị cho là “trên trời” ấy.

Vì những “kỳ tích” ấy, người ta gọi Best là “siêu sao bóng đá đầu tiên”. Tất nhiên, những cột mốc đầu tiên đều không bao giờ là chuẩn mực về sự phát triển. Vài năm sau khi Best qua khỏi đỉnh cao phong độ, thế giới mới choáng ngợp khi thấy Cruyff độc chiếm mặc áo số 14 dù ĐT Hà Lan phát số áo theo thứ tự ABC.

Cruyff có thương hiệu riêng, và có cả cái đặc quyền mặc áo khác với đồng đội ngay trên sân cỏ World Cup (áo ông chỉ có 2 sọc ở cánh tay để phân biệt với mẫu áo có 3 sọc vốn là dấu hiệu của Adidas - nhà tài trợ của Hà Lan tại World Cup 1974).

Beckenbauer được gắn mác “Hoàng đế”, và để cạnh tranh với “Hoàng đế” trên thương trường, Cruyff lại nghĩ ra cách thu “lệ phí phỏng vấn”, như một cách để phân biệt siêu sao với những ngôi sao bình thường.

Trên hết, khi một cựu VĐV bóng nước từng dự Olympic nhưng lại có đầu óc kinh doanh cực nhạy, Joao Havelange, chiếm được ghế chủ tịch FIFA, thì trò chơi bóng đá gần như lập tức trở thành một ngành kinh doanh có giá trị bạc tỷ. Cuộc đời Best sẽ như thế nào nếu ông sinh muộn khoảng chục năm?

NHẤT LÀ BEST & BEST LÀ NHẤT
Ở tuổi 22, Best đã cùng M.U vô địch bóng đá Anh, đoạt Cúp C1, giật “QBV châu Âu”. Và, như đã nêu trên, ông bỗng tuyên bố giải nghệ ở tuổi 26 chỉ vì muốn thoát khỏi sự săn đón của báo chí (bây giờ, thậm chí đã là ngôi sao đi nữa, khối người vẫn sẵn sàng làm đủ mọi cách lố lăng chỉ để được xuất hiện trên mặt báo, và qua đó được nhiều người biết đến hơn).

Best còn quá trẻ để kiểm soát thành công của mình. Khoan nói chuyện khai thác những thành công ấy để kiếm tiền, ngay cả chuyện làm sao để không bị sa ngã trong thành công đã là quá khó rồi. Thiên hạ gọi Best là siêu sao bóng đá chẳng qua vì ông thu hút quá nhiều người đẹp vào vòng tay mình, uống rượu quá nhiều, và cũng có quá nhiều điều kiện để tận hưởng rượu và gái đẹp.

Best chưa bao giờ biết mình có bao nhiêu tiền, chẳng có cố vấn kinh doanh, giám đốc hình ảnh hoặc công ty đại diện nào để vạch ra những chiến lược hốt bạc. Chẳng có điều gì liên quan đến “Chàng Beatle thứ 5” mà lại được thông báo đã có đăng ký độc quyền.

Đấy là chưa kể, Best (người Bắc Ireland) còn có một bất lợi hiển nhiên là ông không được thi đấu cho một ĐTQG lớn. Ông chưa bao giờ xuất hiện trên sân cỏ World Cup hoặc EURO.

George Best tỏa sáng trên sân cỏ Anh và châu Âu ngay trước cái thời kỳ mà sự tỏa sáng ấy có thể đem lại những khoản lợi kếch sù. Ông tỏa sáng trong cái thời kỳ mà phong trào hippy bùng phát, người ta chẳng cần lo toán quá nhiều cho tương lai, phóng túng và mặc kệ các chuẩn mực. Bi kịch cho một tài năng lớn, mang họ Best (nghĩa là Nhất)!

CON SỐ VỀ BEST
470: số trận cho M.U
179: số bàn thắng cho M.U
5: số danh hiệu có được cùng M.U (gồm 2 chức VĐQG, 2 Charity Shield, 1 cúp C1)
2: số danh hiệu cá nhân lớn có được (Quả bóng Vàng năm 1968 và cầu thủ xuất sắc nhất nước Anh theo bầu chọn của các nhà báo thể thao mùa 1967/68)

Nguồn: Bóng Đá + | Huyền thoại George Best (Kỳ cuối): Sinh bất phùng thời nhưng Best vẫn là nhất | Bong da
 

BlaugranaVN

Phóng viên chiến trường Việt Nam
Cán bộ Xã
Đầu quân
30/12/12
Bài viết
775
Được thích
19
Điểm
16
Barça đồng
-402
Tân giáo hoàng Francis 1 là fan ruột của bóng đá: Mối liên hệ chặt chẽ giữa những đức

Tân giáo hoàng Francis 1 là fan ruột của bóng đá: Mối liên hệ chặt chẽ giữa những đức

Khi hơn 1 tỷ tín đồ Thiên chúa giáo trên khắp hành tinh hân hoan chào đón tân Giáo Hoàng Francis I, CLB San Lorenzo ở quê hương của đức cha cũng hồ hởi khoe ra một tấm thẻ CĐV. Trên đó ghi tên “Jorge Mario Bergoglio” – tên khai sinh của Giáo Hoàng. Nghĩa là, Đức Giáo Hoàng là “fan ruột” của bóng đá.
FRANCIS1.jpg

MỘT LỊCH SỬ THĂNG TRẦM
Cuối thế kỷ 16, khi bóng đá mới khởi phát ở nước Anh, môn thể thao này được Giáo hội Thiên chúa giáo đón nhận không mấy nồng nhiệt. Những tài liệu đầu tiên ghi nhận thái độ tiêu cực của các thành viên Giáo hội: “Bóng đá tạo ra sự mất tự chủ và bạo lực kinh khủng” – nhà truyền đạo Thomas Eliot viết năm 1531.

Năm 1571, giám mục vùng Rochester thực hiện cả một chiến dịch nhằm chống lại “môn thể thao quỷ dữ”. Trong một cuốn sách phát hành năm 1587, tác giả mộ đạo Philip Stubbs viết: “Chơi bóng đá kéo chúng ta ra khỏi sự sùng đạo. Bóng đá khuyến khích đố kỵ và thù hằn, đôi lúc là ẩu đả và đổ máu”.

Các tài liệu sử học cũng cho thấy nhiều chàng trai trẻ thời kỳ đó đã bị phạt vì chống lại lệnh cấm chơi bóng đá của nhà thờ. Năm 1589, 2 chàng trai đã bị phạt 2 shilling (một số tiền rất lớn thời đó) vì dám chơi bóng trong khuôn viên nhà thờ St.Werburgh, Manchester trong một buổi giảng đạo của cha xứ.

Tất nhiên, những mặt tối của bóng đá mà các nhà truyền đạo nhận thấy, đến nay vẫn tồn tại. Nhưng nhà thờ đã bỏ qua những mặt sáng của bóng đá trong suốt hơn 2 thế kỷ. Tới đầu thế kỷ 19, những định kiến mới thay đổi. Và tới năm 1878, một CLB bóng đá mang tên một vị thánh ra đời: CLB St. Domingo.
1363203407_extras_noticia_foton_7_1.jpg

Francis I là CĐV CLB San Lorenzo​

Đội bóng đó được thành lập bởi người đứng đầu nhà nguyện St. Domingo, thành phố Liverpool. Ông đã thành lập một đội khúc côn cầu cho người dân trong giáo phận, nhưng môn đó không chơi được vào mùa Đông. Cuối cùng, bóng đá được chọn để giải quyết nhu cầu thể thao trong thời gian trống khúc côn cầu. Họ chơi trận đầu tiên trên sân Stanley Park, giành chiến thắng trước đội bóng đá của Nhà thờ Thánh Peter gần đó.

Một năm sau, năm 1879, CLB giáo phận St.Domingo đổi thành một cái tên mà có lẽ không ai yêu bóng đá là không biết: Everton FC. Thực vậy, Everton là một đội bóng được thành lập bởi nhà thờ, dành cho các giáo dân.

Di Stefano từng chơi bóng với Giáo Hoàng?
Huyền thoại bóng đá Argentina, Alfredo Di Stefano tâm sự rằng ông có thể đã từng chơi bóng với Giáo hoàng Francis khi cả hai còn là những cậu bé. Họ sống trong cùng khu tại Buenos Aires, Giáo hoàng sống trong một nhà thờ cách nhà cha mẹ của Di Stefano chỉ 2 dãy phố. Họ còn học cùng trường. “Ở khu phố tôi sống, chúng tôi chơi bóng đến khi tối mịt, và mọi đứa trẻ đều đã từng đá bóng với nhau. Có lẽ Giáo hoàng là một trong số những người tôi đã từng chơi cùng trên phố”.

GIÁO HOÀNG YÊU BÓNG ĐÁ
Giáo Hoàng Francis I (đọc là Phan-xi-cô đệ Nhất theo cách gọi của Giáo hội) là một người có lối sống giản dị. Ông chọn tên Thánh Francis cũng vì lẽ đó: Thánh Francis là một thiếu gia đã từ bỏ cuộc sống phóng túng trong một gia đình giàu có, chọn kiếp cơ hàn, hành khất cho những người nghèo và rao giảng thông điệp ăn năn. Cho dù là người đứng đầu nhà thờ Argentina, ngài vẫn sống trong một căn hộ chung cư nhỏ ở ngoại ô Buenos Aires, tự nấu nướng và di chuyển bằng xe buýt.

Nhưng Giáo hoàng không nghèo khó về tinh thần: ngài thú nhận rằng mình yêu các bản tango, và đã nhảy suốt thời trai trẻ. “Chúng như thể đi từ trong tôi ra” – Đức Francis I nói về các bản tango. Và Giáo hoàng yêu cả những vũ điệu tango trên sân cỏ.

Tấm thẻ hội viên CLB cổ động mà CLB San Lorenzo, Argentina khoe với thế giới cho thấy Giáo hoàng đã là “fan chính thức” của đội bóng này từ năm 2008. Theo lời kể, thỉnh thoảng Giáo hoàng (khi đó còn là Đức Hồng y Bergoglio) còn đi xe buýt tới sân nhà Gasometro của họ để xem bóng đá.

Thú vị nhất, là San Lorenzo cũng được thành lập bởi một mục sư. CLB lấy theo tên ông, Lorenzo Massa. Cha Lorenzo Massa đã cho lũ trẻ được chơi bóng trong sân nhà thờ thay vì chơi bóng trên những đường phố đầy rẫy nguy cơ của thành phố Buenos Aires. Màu áo của CLB này, xanh và đỏ, là màu áo choàng của Đức mẹ đồng trinh Mary.

Lịch sử đầy ý nghĩa ấy phải chăng là lý do khiến San Lorenzo có một CĐV đặc biệt đến thế? Bởi theo lý, khi lớn lên trong một khu phố Buenos Aires, từng là tổng giám mục giáo phận Buenos Aires, Đức Giáo Hoàng có thể chọn một trong 2 CLB hùng mạnh của thành phố này là River Plate và Boca Juniors.

Những thành viên San Lorenzo không quan tâm, họ chỉ biết tự hào. Ngay sau khi Giáo Hoàng nhậm chức, trong trận đấu tiếp sau đó, gặp Colon, các cầu thủ CLB này đã ra sân với những chiếc áo có in hình Giáo Hoàng Francis I.

Sự tồn tại của CLB San Lorenzo, cùng với tình cảm mà người đứng đầu Giáo hội dành cho họ, có lẽ là minh chứng tuyệt vời nhất cho sự liên hệ chặt chẽ giữa những đức tin tốt đẹp của con người.
FRANCIS1c.jpg

San Lorenzo – CLB của Giáo Hoàng
San Lorenzo đóng ở khu Boedo, một khu lao động của thành phố Buenos Aires. Họ đã từng là một CLB hùng mạnh, cho đến nay vẫn giữ kỷ lục là đội duy nhất giành 2 chức vô địch quốc gia trong một năm, từng được báo chí Tây Ban Nha ca tụng là “CLB xuất sắc nhất thế giới” sau khi đánh bại Barca trong thập kỷ 40. Tuy nhiên, lần cuối San Lorenzo vô địch Clausura đã từ năm 2007. Hiện họ đang vật lộn với những vị trí ở giữa BXH.

San Lorenzo từng là đội bóng của rất nhiều hảo thủ Argentina, có thể kể ra những cái tên vẫn đang tung hoành ở châu Âu như Lavezzi (Napoli) hay Zabaletta (Man City). Đây cũng là nơi Jorge Higuain, cha đẻ của Gonzalo Higuain từng thi đấu.

HỌ ĐÃ NÓI VỀ BÓNG ĐÁ & NHÀ THỜ
- “Kinh thánh nói rằng Chúa sẽ cho bạn nhiều hơn cả những gì bạn đòi hỏi, và đó là điều đã diễn ra trong đời tôi” – Ricardo Kaka, con chiên ngoan đạo nổi tiếng nhất làng bóng đá.
- “Họ có thể bỏ dở lễ cầu nguyện, chạy ra ném đá vào người HLV Inter Milan, rồi lại vào nhà thờ cầu nguyện tiếp” – HLV Rafa Benitez nói về CĐV Napoli.
- “Bàn tay của Chúa đã chọn ra Giáo Hoàng” – Diego Maradona nghịch ngợm sau khi Giáo Hoàng Francis được bầu.
- “Tôi đã tìm đến mục sư trong những giai đoạn khó khăn nhất ở Man City. Tôi cảm thấy mình thanh thản” – Mario Balotelli.
- “Bác sỹ nói rằng chấn thương của tôi rất khó chữa. Nhưng tôi liên hệ với Chúa, đã nạp đầy năng lượng của Chúa” – Glenn Hoddle nói về chấn thương gót chân năm 1986.

Nguồn: Bóng Đá + | Tân giáo hoàng Francis 1 là fan ruột của bóng đá: Mối liên hệ chặt chẽ giữa những đức tin tốt đẹp | Bong da
 

lonely

Trung học xã
Đầu quân
7/3/14
Bài viết
44
Được thích
0
Điểm
6
Barça đồng
0
Mình thích nhất câu này:
- “Bàn tay của Chúa đã chọn ra Giáo Hoàng” – Diego Maradona nghịch ngợm sau khi Giáo Hoàng Francis được bầu.
Không kể là ai, hễ là người hâm mộ bóng đá đều như nhau.
 

Xã viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Chủ đề mới nhất

Giới thiệu

  • Barçamania Việt Nam thành lập từ năm 2005. Chúng tôi không thiên vị trong các thảo luận, đảm bảo thông tin chính xác không giả mạo. Chúng tôi cam kết xây dựng diễn đàn lành mạnh và phi lợi nhuận.
Top